Thánh Hóa Gia Ðình

Tòa Giám Mục Giáo Phận Phan Thiết

 

Phúc âm theo Thánh Mát-thêu viết: Các nhà chiêm tinh được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa (ông có ý định giết Chúa Hài Nhi) nên họ đã đi lối khác mà về nhà mình (2, 12). Bấy giờ, vua Hê-rô-đê thấy mình bị các nhà chiêm tinh đánh lừa thì đùng đùng nổi giận, ông sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh (2, 16).

Vua Hê-rô-đê âm mưu giết hại Chúa Hài Nhi, vì sợ sệt, vì ích kỷ, vì tham quyền. Ông là một nhà độc tài, một bạo chúa, một đồ tể, một tên sát nhân. Ông đã sai người đi triệt hạ tất cả những đứa trẻ dưới hai tuổi tại Bê-lem và các vùng lân cận, vì sợ Hài Nhi mà các nhà chiêm tinh gọi là "Vua dân Do-thái mới sinh" sẽ tranh ngôi với ông (2, 21). Hê-rô-đê đã để lại cho hậu thế một hình ảnh đồi bại, xấu xa, độc ác của một tên đồ tể.

 

Những đứa bé vô gia đình

Thế giới của chúng ta hôm nay vẫn còn nhiều người xấu xa, đồi bại, sát nhân như vua Hê-rô-đê. Họ tìm mọi phương cách bất chính để giảm bớt trẻ em trên mặt đất. Họ gieo rắc sự sợ sệt, ích kỷ tàn ác trong các gia đình, nhất là trên các nam thanh, nữ tú. Trong số người thù của sự sống này, có các vua quan, các nhà lãnh đạo đất nước, những người đang cầm vận mạng các dân tộc, những nhà kinh tế, chính trị, giáo dục, những người làm công tác truyền thông v.v... Họ đặt điều kiện cho các nước nghèo để được viện trợ, họ bắt buộc các công nhân, viên chức hạ thấp số con, họ chủ trương phải giảm bớt thực khách, để gia tăng phần ăn của họ. Họ không ngần ngại phí phạm hằng triệu tỷ đồng để sản xuất vũ khí, để hội họp, để giao dịch hay công du. Mỗi năm, hằng triệu trẻ em đã bị giết trong bụng của người mẹ do nạn đặt vòng, nạo thai, sử dụng thuốc ngừa thai, triệt sản!

Tại Việt Nam, các nhà xã hội học ước tính số người nạo thai trong cả nước hằng năm có thể từ 2 đến 3 triệu người. Năm 1997, tổng số sinh trên toàn quốc là 1.138.607 ca, thì số nạo phá thai là 934.302 ca. Năm 1998, số sinh 1.101.791 ca, số nạo phá thai 861.353, trong đó 13,4% người mẹ là thiếu nữ từ 15 đến 19 tuổi. Ðây mới chỉ là số thông kê nạo phá thai trong các cơ sở Nhà Nước, chưa tính đến các cơ sở tư nhân (x. Tạp chí Thông Tin Dân Số, số 3.2002, tr. 33). Ðể phát triển kinh tế, người ta rầm rộ khuyến khích việc chăn nuôi: chim trời, cá biển, gia súc và dã thú càng nhiều càng lợi và càng hay. Nhưng người ta lại làm ngược lại đối với loài người!

Tại một nước nọ, để gây ý thức cho nhân dân về tính kinh khủng của nạn sát nhi, người ta đã xây dựng một nghĩa trang cho những thai nhi, thu lượm được ở các bệnh viện. Mỗi ngày, có đến hàng trăm đám tang được chôn cất. Và không bao lâu, nghĩa trang này đã đầy chật người! Thật là kinh khủng! Công Ðồng Vatican 2 đã dạy: "Sự sống ngay từ lúc thụ thai phải được gìn giữ hết sức cẩn thận. Phá thai và sát nhi là những tội ác ghê gớm" (Hiến chế Mục Vụ số 51)

 

Gia đình, nơi bảo vệ sự sống

Ðược tin ác vương Hê-rô-đê đang tìm cách để sát hại Hài Nhi, thánh Giu-se và Ðức Ma-ri-a hối hả, đang đêm, mang Ngài sang tị nạn bên Ai-cập. Hai ông bà ở lại đó cho đến khi tên bạo chúa băng hà. Thế là, nhờ gia đình, Chúa Hài Nhi đã được cứu sống. Sự sống đã được ban trong gia đình, được bảo vệ và bênh vực nhờ gia đình, được lớn lên, vững mạnh và phát triển với gia đình. Gia đình đúng là cộng đoàn của sự sống.

Theo sách Sáng Thế, thì khi tạo dựng, Thiên Chúa, Ðấng ban sự sống, đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài: "Ngài tạo dựng họ là nam và là nữ. Ngài đã chúc lành và đã phán bảo họ: Hãy sinh sôi nẩy nở và hãy làm bá chủ trên mọi sinh vật" (x. St 1, 27 - 28). Thế là Thiên Chúa đã tạo dựng con người và thiết lập gia đình để lưu truyền sự sống trên mặt đất và cai quản nó. Ngài đã chúc lành cho đôi hôn nhân: là người nam và người nữ và đã dạy họ sinh con cái.

Ðó là ý định của Thiên Chúa ngay từ buổi đầu. Phẩm giá và danh dự của gia đình là được lãnh nhận và trao ban lại sự sống. Vì sự sống là ân huệ cao quý nhất của Thiên Chúa nên việc sinh con cái của người chồng và người vợ là hành vi tuyệt diệu và tuyệt mỹ của gia đình. Vì vậy, đừng ai, vì sợ, vì ích kỷ hay vì vô luân, mà dã tâm sát hại trẻ con như vua Hê-rô-đê. Hãy bảo vệ, bênh vực và phát huy sự sống. Ðồng thời, hãy chú trọng đến phẩm chất: sống có tư cách, có bản lĩnh, có văn hóa; sống cho ra người và hơn nữa, đối với người Ki-tô hữu chúng ta, sống như những người con của Thiên Chúa, "hoàn thiện như Chúa Cha trên trời là Ðấng hoàn thiện" (Mt 5, 48).

 

Gia đình có trách nhiệm

Ðược sứ thần báo tin vua Hê-rô-đê đang tìm cách giết Hài Nhi, ông Giu-se và bà Maria đã vội vã mang con sang tị nạn bên Ai-cập. Họ ra đi, vì trách nhiệm, để bảo vệ sự sống của đứa con, bất chấp mọi gian nguy, khổ nhọc. Việc truyền sinh là ý định của Thiên Chúa Tạo Hóa, nên không có một cá nhân hay quyền lực nào được sửa đổi hay ngăn chận tiến trình phát triển tự nhiên của nó. Sử dụng những phương tiện khoa học để tránh việc thụ thai, hủy hoại những cơ quan truyền sinh, triệt sản hay nạo thai là xúc phạm đến định luật của Thiên Chúa, Ðấng tạo dựng con người.

Nhưng song song với mệnh lệnh truyền sinh này, Thiên Chúa cũng đã ban cho con người quyền làm chủ (x. St 1, 28). Với quyền làm chủ này, họ phải chế ngự và điều hòa có trách nhiệm việc sinh sản của họ trong tình yêu và sự kính trọng lẫn nhau, theo khả năng nuôi dưỡng và giáo dục con cái của họ và trong bối cảnh xã hội họ đang sống. Họ phải là những người tự do, có nhân cách, bản lĩnh và trách nhiệm trong việc sinh con cái.

 

Tòa Giám Mục Giáo Phận Phan Thiết

 

___________________________________________________________________

 

 

Hãy Cứu Lấy Gia Ðình

Hãy Cứu Lấy Trẻ Thơ

 

Prepared for Internet by Vietnamese Missionaries in Asia

 

Nhìn vào Máng Cỏ Noel, ai cũng phải chạnh lòng. Một trẻ thơ mới sinh ra đời đã phải vất vả lầm than. Không có nhà cửa giường chiếu đã đành. Lại còn phải ở chung với súc vật. Ðối với một con người bình thường như thế đã là khốn khổ quá mức. Ðối với Thiên chúa làm người thì lại càng thê thảm biết chừng nào.

Chịu cảnh lầm than khốn khổ trước sự vô tình của đồng loại chưa đủ, Ðức Chúa Giê-su bé thơ còn phải chịu cảnh khốn khổ vì sự độc ác của bạo vương Hê-rô-đê. Hê-rô-đê nghe tin có Ðấng Cứu Thế ra đời, sợ mất chức quyền nên đã cho quân đội truy tìm để tiêu diệt. Thánh Giu-se và Ðức Mẹ Ma-ri-a đã phải bồng bế Hài Nhi Giê su còn non nớt chạy trốn sang Ai-cập.

Tuy khung cảnh nơi chuồng bò có thô sơ đạm bạc, nhưng nhìn vào vẫn thấy ấm cúng. Một bầu không khí thương yêu toả ra bao trùm cảnh tối tăm nghèo khổ hôi hám. Ánh mắt thánh Giu-se, ánh mắt Ðức Mẹ, ánh mắt Ðức Giê-su bừng lên tình thương yêu, sự quên mình, sự quan tâm. Ðó là bầu khí gia đình yên vui đầm ấm. Hạnh phúc vẫn dâng đầy dù trong cảnh khó khăn túng thiếu.

Ta không mường tượng được Ðức Giê-su sẽ vượt qua những hoàn cảnh khó khăn thế nào nếu không có gia đình. Chính gia đình tốt đẹp đã đưa hài nhi Giê-su vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Chính gia đình vui tươi đầm ấm đã giúp hài nhi Giê-su triển nở nên người, hoàn thành sứ mạng cứu nhân độ thế.

Gia đình là chiếc nôi êm ái nhất nâng niu giấc ngủ trẻ thơ. Gia đình là lương thực bổ dưỡng nhất giúp phát triển trẻ thơ. Gia đình là thành trì vững chắc nhất để bảo vệ trẻ thơ.

Nhìn ngắm Ðức Giê-su sơ sinh ra trong máng cỏ nghèo hèn, ta không thể không nghĩ tới biết bao trẻ thơ sinh ra hôm nay đang phải chịu cảnh đói nghèo thiếu thốn. Không chỉ là thiếu thốn vật chất mà còn thiếu thốn tình thương. Không chỉ thiếu thốn nhà cửa mà còn thiếu một mái gia đình. Không chỉ bị giá lạnh của thời tiết mà còn bị giá lạnh vì thiếu vòng tay ôm ấp vỗ về.

Không có cảnh nghèo nào khốn cùng hơn cảnh trẻ thơ thiếu tình thương. Không có mái nhà nào rách nát hơn cảnh gia đình tan vỡ. Không có mùa đông nào giá lạnh hơn mùa đông của trái tim. Muốn cứu lấy trẻ thơ phải cứu lấy gia đình. Gia đình là tương lai của trẻ thơ. Gia đình là tương lai của thế giới.

Nhìn cảnh bạo vương Hê-rô-đê săn đuổi Ðức Giê-su bé thơ, ta không khỏi nghĩ đến biết bao trẻ thơ hôm nay cũng đang bị săn đuổi. Những bạo vương chỉ vì tiền bạc lợi nhuận mà giết chết biết bao đời trẻ thơ. Vì tư lợi các bạo vương thời mới không ngần ngại phát tán nọc độc trong sách báo, phim ảnh xấu. Vì lợi nhuận những Hê-rô-đê thời mới đã giết biết bao đời trẻ thơ trong nạn nghiện ngập xì ke ma tuý. Ðể phục vụ quyền lợi của cá nhân, các bạo vương thời mới không ngần ngại khai thác trẻ thơ trong lãnh vực kinh doanh.

Hãy cứu lấy trẻ thơ khỏi tay các bạo vương thời mới. Trẻ thơ là tương lai của chúng ta.

Hãy cứu lấy tương lai chúng ta. Ðức Giê-su vẫn tươi cười trong chuồng bò lạnh lẽo tối tăm hôi hám, vì bên cạnh Người còn có một gia đình yên vui đầm ấm, có tình yêu thương của Ðức Mẹ Ma-ri-a, của thánh Giu-se.

Xin Ðức Giê-su Bé Thơ thương đến các trẻ em hôm nay, ban cho các em được sự quan tâm chăm sóc của mọi người. Xin Người gìn giữ các gia đình được yên vui đầm ấm để tương lai trẻ thơ được tươi sáng. Amen.

 

Gm. Ngô Quang Kiệt, Giáo Phận Lạng Sơn

 

________________________________________________________________________

 

 

Gia Ðình

Chiếc Nôi Văn Hóa Ðức Tin

Phần I: Gia Ðình

Chiếc Nôi Văn Hóa Sự Sống Và Tình Yêu

 

Phần Dẫn Nhập

 

Trong Huấn Thị "Thử Tìm Một Hướng Mục Vụ Cho Vấn Ðề Văn Hóa" của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, 1999, số 14 đã trích dẫn "Thư Gửi Các Gia Ðình", 1994, số 7 (ÐGH. Gioan Phaolô.II) như sau: "Tựa như chiếc nôi của tình yêu và sự sống, gia đình cũng là nguồn cội của văn hóa. Gia đình chính là nơi nghênh đón sự sống và là trường dạy nhân bản, trong đó các cặp vợ chồng tương lai cần được huấn luyện hết sức chu đáo để làm nên cộng đồng gia đình."

Huấn Thị còn nhấn mạnh thêm: "Gia đình phải lo bảo vệ vai trò căn bản của mình là làm môi trường ưu tiên giúp con người và xã hội được nhân bản hóa" vì "Tương lai nhân loại thế nào là tùy vào chỗ mọi người có được phát triển nhân bản đầy đủ và có liên đới với nhau hay không?" (Populorum progressio, số 42)"

Chúng ta nhận thấy Giáo Hội rất quan tâm và đề cao giá trị nhân bản trong các gia đình. Vậy cuộc sống nhân bản theo quan điểm Ki-tô Giáo là gì? Ðó có phải là nơi gặp gỡ và hội nhập giữa văn hóa và Ðức Tin hay không? Theo tinh thần Huấn Thị của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Văn Hóa, chúng tôi muốn nhìn lại Công đồng Vatican 2 qua Hiến chế "Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay" (GS), Phần II, chương I và chương II về Phẩm Giá của Hôn Nhân Gia Ðình và Phát Triển Văn Hóa.

Trong phạm vi bài viết, chúng tôi xin được đề cập đến hai nét căn bản trong văn hóa gia đình mà Công đồng đã đặc biệt nhấn mạnh đó là: sự sống và tình yêu (GS 49, 50), để góp phần "Xây dựng một nền nhân bản đích thực về gia đình" (FC 7) trong một thế giới đang phải chọn lựa giữa văn hóa sự sống và sự chết, giữa văn minh tình thương và ích kỷ.

Ðây chính là một trong những thách đố niềm tin nghiêm trọng mà các gia đình Công Giáo Việt Nam cũng như toàn cầu đang phải đối diện. Vấn đề là trong khi "con người chỉ có thể thực hiện được nhân tính đích thực và trọn vẹn của mình nhờ văn hóa" (GS 53), thì chính "nền văn hóa cũng đang vương tội lụy" (Fides et ratio, 71). Vì thế, nó cần phải được các gia đình Ki-tô hữu phân định và hiểu đúng ý nghĩa của việc hội nhập văn hóa là "biến đổi sâu xa các giá trị văn hóa đích thực bằng cách cho chúng hội nhập vào Ki-tô Giáo và đưa Ki-tô Giáo hội nhập vào các nền văn hóa khác nhau của nhân loại" (Redemptoris missio, 52) vì "Ðức Tin mà không trở thành văn hóa là Ðức Tin chưa được chấp nhận hoàn toàn, chưa được suy cho thấu và chưa được sống tới cùng." (ÐTC Gioan Phaolô II, Thư thành lập Hội Ðồng Giáo Hoàng về Văn Hóa ngày 20.5.1982).

Hy vọng khi các gia đình Công Giáo Việt Nam sống đúng bản chất của mình là chiếc nôi văn hóa sự sống và tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa, mọi thành viên trong gia đình có thể nhận ra lời mời gọi của Ðức Tin, sống Ðức Tin và chuyển trao ánh sáng Ðức Tin như một tin mừng hy vọng, cách hiệu quả ngay trong môi trường sống tràn ngập bóng tối hiện nay.

Sau đây là 3 phần chính của đề tài:

 

Phần I: Gia Ðình - Chiếc Nôi Văn Hóa Sự Sống Và Tình Yêu

 

Nếu "văn hóa là phương cách đặc thù mà mỗi người và mỗi dân tộc dựa vào để tổ chức các quan hệ của mình với thiên nhiên, với anh chị em đồng loại, với bản thân mình và với Thiên Chúa, để có một cuộc sống nhân bản trọn vẹn" (GS 53), thì gia đình chính là chiếc nôi văn hóa của một đời người vì văn hóa chỉ có thông qua con người, nhờ con người.

Chiếc nôi văn hóa gia đình là hình ảnh của lòng mẹ được gọi một cách trang trọng là "tử cung" nơi bào thai được hình thành, là vòng tay ẵm, là nhịp võng ru, là đầu gối mẹ cha, là nơi người con được hấp thụ toàn bộ sinh hoạt nhân bản: sinh hoạt trí tuệ và tình cảm, việc tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời, các phong tục tập quán và luân lý của con người. Nói cách khác, mỗi người đón nhận từ gia đình một vòng đời văn hóa: yêu thương, phục vụ, hiếu đễ, tang tế; trong đó, sự sống và tình yêu là hai nét văn hóa cơ bản và cần thiết nhất để con người được hiện hữu và trưởng thành nhân cách.

Chúng ta sẽ lần luợt tìm hiểu về hai nét văn hóa sự sống và tình yêu trong văn hóa gia đình của truyền thống dân tộc Việt Nam và nguồn văn hóa Ki-tô Giáo qua những lời� giáo huấn của Hội Thánh từ Công đồng Vatican 2 cho tới nay.

 

I. Văn Hóa Sự Sống:

A. Truyền Thống Văn Hóa Gia Ðình Việt Nam:

Tự bản chất, gia đình là nơi con người được sinh ra, được bảo vệ và được thăng tiến sự sống. Truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam vừa bộc lộ nét văn hóa quý trọng sự sống căn bản của đời người trong việc sinh sản, vừa nuôi dưỡng nét đẹp văn hóa ấy trong giáo dục gia đình để con người được phát triển về thể chất và nhân cách đồng thời góp phần xây dựng nền văn minh cho dân tộc.

1. Con Rồng cháu Tiên

Câu chuyện Bà Âu Cơ sinh 100 con là một huyền sử dựng nước có nhiều ý nghĩa, mang tính biểu tượng cho một nền văn hóa phát triển sự sống để một dân tộc trở nên hùng mạnh, đoàn kết, và kiên cường mở mang đất nước. Cổ nhân thường dùng hình ảnh để dạy con cháu, thần thoại Rồng Tiên là bóng dáng của lịch sử tô điểm cho các giá trị truyền thống.

Theo Ðông Phong, tác giả cuốn Văn Hóa Cổ Truyền Việt Nam thì Rồng Tiên thực chất là niềm tự hào của dân tộc, là tinh hoa của văn hóa, là cơ sở giáo dục của tiền nhân. "Rồng" là biểu hiện cho sức mạnh biến hóa, hợp thời, vận may, hy vọng. Còn "Tiên" biểu hiện sự thanh khiết, viên mãn, trường sinh và hạnh phúc (x. Ðông Phong, VHCTVN, nxb. Mũi Cà Mau, 1998)

2. Những lời chúc: "Trùng trùng bách tử thiên tôn" hay "đa tử, đa tôn", "phúc, lộc, thọ"...

Ðó là những lời chúc tốt đẹp cao quý nhất người ta thường trao cho nhau vào những dịp lễ đặc biệt của một đời người như ngày tân hôn và trong ngày đầu năm khi đi thăm viếng các gia đình thân nhân họ hàng. Truyền thống này nói lên khát vọng hạnh phúc của từng con người là mong được sống lâu bên đàn con cháu đông đúc làm thành "tứ đại đồng đường". Nói chung, khát vọng sống và sợ chết luôn nằm trong bản chất của con người. Ðó là khát vọng tâm linh hình thành nên nền văn hóa tôn trọng sự sống, phục vụ sự sống của người Việt Nam qua truyền thống Ðạo Hiếu:

"Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con."

Cũng theo tác giả Ðông Phong thì nét đặc biệt trong Văn Hóa gia đình Việt Nam là "chăm sóc con cái và phụng dưỡng người già". Vì thế mà ca dao, tục ngữ, truyện cổ Việt Nam luôn đề cao những bậc cha mẹ hy sinh nuôi nấng con cái, và con cái hiếu thảo với Cha Mẹ, Ông Bà, tôn kính những người cao tuổi. (Nhị Thập Tứ Hiếu, Lục Vân Tiên, Truyện Kiều...). Ðồng thời, văn học dân gian cũng luôn kết tội những người gian ác, bất hiếu. (Truyện Tấm Cám, Tích Chu,...).

B. Truyền Thống Ki-tô Giáo Về Văn Hóa Sự Sống:

Dựa vào những bản văn Thánh Kinh, Ki-tô Giáo giúp cho nền văn hóa sự sống được vươn tới những tầm mức siêu việt khi tin nhận rằng: Thiên Chúa chính là sự sống, Ngài làm chủ sự sống và cho con người tham dự vào công trình sáng tạo của Ngài. Vì thế, Giáo Hội luôn đề cao giá trị của hôn nhân gia đình như "cung thánh sự sống" và không ngừng lên tiếng bảo vệ quyền sống của con người.

1. Truyền thống tôn trọng và phục vụ sự sống

Công Ðồng Vatican 2 tuyên bố: "Hôn nhân và tình yêu vợ chồng tự bản tính qui hướng về sự sinh sản và giáo dục con cái. Con cái là ơn huệ cao quý nhất của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Thiên Chúa đã phán: "Ðàn ông ở một mình không tốt" (St 2, 18) Ngài là Ðấng: "...từ buổi đầu, đã dựng nên một người nam và một người nữ rồi nói: "Các ngươi hãy tăng gia sinh sản" (St 1, 28)" (GS 50).

Thiên Chúa còn ban giới răn "Không được giết người" (Mt 5, 21) hiểu như một sự tôn trọng sự sống và làm cho sự sống thêm phong phú; nhất là khi Ðức Giê-su tuyên bố: Ngài đến là để làm cho chiên được sống và sống dồi dào (x. Ga 10, 10); ngày Sa-bát là để làm cho sống chứ không phải để giết chết (x. Mt 12, 12); và sự chết của Ngài cũng chính là để cho chúng ta được sống sự sống viên mãn. (Rm 6, 4)

2. Truyền thống bảo vệ quyền sống của con người

Ðứng trước thế lực toàn cầu của nền văn minh sự chết đang khủng bố sự sống ngay từ khi mới chớm nở, đánh mất lương tâm tập thể, Giáo Hội đã quan tâm rất nhiều trong việc giáo dục văn hóa sự sống cho các gia đình từ Công đồng Vatican 2 trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng (GS), Thông Ðiệp Sự Sống Con Người của Ðức Phao-lô 6, 1968 (HV); Huấn Thị Ơn Ban Sự Sống của Thánh Bộ Giáo Lý Ðức Tin, 1987; Sách Giáo lý Công Giáo (FD), 1992. Riêng Ðức Gio-an Phao-lô 2, trong triều đại Giáo Hoàng, đã ban Tông Huấn: Familiaris consortio, 1981 (FC); Thông Ðiệp Veritatis splendor, 1993; Thông Ðiệp Centesimus annus, 1991 (CA); Thư Gửi Các Gia Ðình, 1994; đặc biệt là Thông Ðiệp Tin Mừng về Sự Sống, 1995; và Huấn Thị Con Cái Mùa Xuân của Gia Ðình, 1998.

Giáo Hội không ngừng lên tiếng bảo vệ quyền sống của con người, đặc biệt đối với trẻ thơ: "Nhờ ánh sáng của lý trí và không quên tác động âm thầm của ân sủng, bất cứ ai thành thật mở lòng cho sự thật và sự thiện đều có thể nhận ra, trong luật tự nhiên ghi khắc nơi tâm hồn (x. Rm 2, 14 - 15), giá trị thánh thiêng của sự sống con người từ lúc chào đời cho đến hồi kết thúc. Sự sống con người đến từ Thiên Chúa. Ðó là quà tặng của Ngài, là hình ảnh và là dấu ấn của Ngài, là sự thông phần vào hơi thở ban sức sống của Ngài. Cho nên, Thiên Chúa là Ðức Chúa duy nhất của sự sống ấy: loài người không có quyền quyết định trên sự sống đó. Sự sống con người là ân phúc hàng đầu của nhân loại mà tất cả mọi người chúng ta phải bảo vệ.

Thế nên Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền quả quyết rằng: "Mọi cá nhân đều có quyền sống" và Hiến Chương Các Quyền của Gia Ðình của Toà Thánh (1983) xác nhận rằng: "Sự sống con người phải được tuyệt đối tôn trọng và bảo vệ ngay từ giây phút thành thai" (Ð.4). "Do đó trước cũng như sau khi sinh ra, trẻ thơ có quyền bảo vệ và chăm sóc đặc biệt" (Ð. 4d). Vì thế đối với Giáo Hội, "phá thai là một tội ác khủng khiếp, tương tự việc giết hại trẻ thơ." (x. Huấn Thị Hội Ðồng Giáo Hoàng về Gia Ðình, 1998)

3. Gia đình là "cung thánh sự sống"

Giáo Hội luôn nhìn nhận rằng: Ơn ban sự sống được nối liền với gia đình vốn là "cung thánh của sự sống". Ðó là ý định của Thiên Chúa, từ khi tạo dựng, không những chỉ bằng sự cộng tác vào công trình tạo dựng ở lúc thụ thai, nhưng còn kéo dài suốt quá trình giáo dục (như một cuộc đồng tạo dựng toàn diện), là một quá trình phải làm cho mỗi con trẻ, mỗi nhân vị lớn lên theo hình ảnh Thiên Chúa, và giống như Ngài, nghĩa là theo như hình tượng tối hảo là chính Chúa Ki-tô...

Gia đình là nơi mà nền văn hóa sự sống phát sinh, nơi mà sự sống được công bố khi thụ thai, như một tin phúc hạnh trong Chúa Ki-tô, nơi mà sự sống được tôn dương và nơi kiến tạo tương lai cho nhân loại, một nhân loại được coi như trung tâm điểm và trái tim của nền văn minh tình yêu (Lời Giới Thiệu Thông Ðiệp Tin Mừng về Sự Sống của Ðức Hồng Y A.I. Trujillo Chủ Tịch. HÐTT về Gia Ðình).

 

II. Văn Hóa Tình Yêu:

A. Truyền Thống văn Hóa Gia Ðình Việt Nam:

1. Nền văn hóa đề cao tình yêu chân chính

Hình ảnh quen thuộc nhất đối với dân tộc Việt Nam khi nói về gia đình, đó là "Chiếc nôi tình yêu", "Mái ấm hạnh phúc". Gia đình được hình thành trong tình yêu và là nơi trao nhận tình yêu. Qua truyện cổ Công Chúa Tiên Dung và Chử Ðồng Tử, Sự Tích Trầu Cau, và truyện Ông Táo cho thấy: khi chưa bị ảnh hưởng nặng nề của phong kiến dưới ách lệ thuộc gần một ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã có những quan niệm về hôn nhân gia đình rõ rệt chính xác, đó là duyên nợ và tình yêu. Duyên nợ mang tính duy tâm huyền bí, tình yêu là yếu tố quyết định đi tới hôn nhân.

2. Nền văn hóa đề cao tình yêu tự do và lễ giáo

Hôn nhân tự do trong lễ giáo là khát vọng của tình yêu nam nữ trong hôn nhân Việt Nam. Gia đình yêu thương, hòa thuận, thủy chung, thuần nhất và gắn bó với đại gia đình cha mẹ, gia tộc và dân tộc. Nghi thức cưới hỏi của truyền thống văn hóa Việt Nam đã diễn tả ý nghĩa cao quý này qua biểu tượng: trầu cau, cặp đèn, mâm quả, lời nguyện trước gia tiên, những lời cầu chúc trăm năm hạnh phúc,... Hôn nhân gả bán, ép buộc có giá trị pháp lý thời xưa, nhưng là phi luân lý, phi đạo đức... gặp chống đối từ chính nội tâm đương sự và cả dư luận sáng suốt phản ánh trong tục ngữ: "Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên". Tình yêu đã đem lại vô số những tác phẩm lớn trong văn học trí thức cũng như những câu ca dao bình dân. (x. Ðông Phong, sđd): "Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua." Và: "Thuận vợ thuận chồng, tát bể Ðông cũng cạn".

B. Truyền Thống Ki-tô Giáo Về Văn Hóa Tình Yêu:

1. Hôn nhân là một giao ước tình yêu

Sống yêu thương là điều kiện để trở nên người Ki-tô hữu: "Thầy ban cho các con điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 14, 33), và Hôn nhân Ki-tô giáo cũng là một giao ước của tình yêu giữa hai người nam nữ. Họ cam kết yêu thương, tôn trọng và trung thành với nhau suốt đời để thăng hoa tình yêu trong việc sinh con cái.

2. Tình yêu hôn nhân bất khả phân ly

Trong Hiến chế Gaudium et spes, số 48 đã viết về đời sống hôn nhân gia đình như sau: "Bởi giao ước hôn nhân, người nam và người nữ "không còn là hai, nhưng là một xương thịt" (Mt 19, 6), phục vụ và giúp đỡ lẫn nhau bằng sự kết hợp mật thiết trong con người và hành động của họ, cảm nghiệm và hiểu được sự hiệp nhất với nhau mỗi ngày mỗi đầy đủ hơn. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho nhau cũng như lợi ích của con cái buộc hai vợ chồng hoàn toàn trung tín và đòi hỏi kếp hợp với nhau bất khả phân ly."

Trong Thánh Lễ Hôn Phối, Hội Thánh đã lấy lời Thánh Phao-lô để khuyên dạy: "Người làm chồng hãy yêu thương vợ như Ðức Ki-tô đã yêu thương Hội Thánh, và hiến mình vì Hội Thánh để Người thánh hóa Hội Thánh" (Ep 5, 25 - 26). "Chính vì thế, người nam sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Ðức Ki-tô và Hội Thánh." (Ep 5, 31 - 32)

Qua phần trình bày trên, chúng ta nhận thấy rằng: Sự sống, tình yêu là điểm chung gặp gỡ của nền nhân bản đích thực và Giáo Lý Ðức Tin Ki-tô Giáo vì Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài và đã khắc sâu trong tâm hồn mỗi người lòng khao khát hướng về cội nguồn sự sống và tình yêu là chính Ngài.

Nhìn vào sự phát triển của Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt qua đời sống chứng nhân của các Thánh Tử Ðạo và nếp sống Mục Vụ Giáo Xứ sinh động như hiện nay, chúng ta nhận thấy rõ hơn rằng: chiếc nôi truyền thống văn hóa gia đình Việt Nam rất thích hợp để đón nhận văn hóa Tin mừng Sự Sống và Tình Yêu của Ki-tô giáo.

 

Nữ tu Tê-rê-xa Phạm Thị Oanh, Dòng Ða-minh Tam Hiệp

 

_____________________________________________________________________

 

 

Thứ Tha Và Hòa Giải Trong Gia Ðình

 

 

"Nói đến gia đình Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp gia phong rất gần gũi với giáo lý đức tin. Gia đình ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc Âm, trong đó điều răn phải thảo kính cha mẹ được xếp ngay sau ba điều răn qui định việc thờ phượng Thiên Chúa. Gia đình ấy xem chữ Tín làm trọng nên dễ dàng gặp thấy nơi điều răn thứ sáu và thứ chín tiếng nói chung nhằm bảo vệ đời sống hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Gia đình ấy gồm có ông bà cha mẹ con cái trên Thuận dưới Hòa trong một mái nhà đầm ấm, được xem như một môi trường tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đức tin, nhất là cho việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha và coi mọi người như anh chị em" (Số 2).

Vào Ðề

Trong Thư Mục Vụ ngày 11.10.2002 về Hôn Nhân và Gia Ðình, Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã nêu lên những nét đẹp truyền thống của gia đình Việt Nam như sau:

 

Thế nhưng trong thực tế, không phải gia đình Công Giáo nào cũng thể hiện được những nét đẹp vừa đậm đà bản sắc dân tộc vừa thấm nhuần tinh thần Ki-tô Giáo. Trở ngại lớn nhất là sự bất hòa và xúc phạm thường xảy ra trong gia đình: giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái.

Vậy chúng ta thử hỏi:

- Do đâu mà thường xảy ra bất hòa và xúc phạm trong gia đình?

- Tại sao những người trong gia đình phải thứ tha và hòa giải với nhau? Thứ tha và hòa giải với nhau sẽ đem lại lợi ích gì?

- Ðể thứ tha và hòa giải trong gia đình, cần có những điều kiện gì?

 

Trình Bày

1. Nguyên Nhân Gây Bất Hòa Và Xúc Phạm Trong Gia Ðình:

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới bất hòa và xúc phạm trong gia đình. Có nguyên nhân gần và nguyên nhân sâu xa. Nguyên nhân gần là do giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái có nhiều cái khác nhau về tuổi tác, tính tình, sở thích, tập quán, cảm nhận, sức khỏe, áp lực của trách nhiệm và công việc. Nguyên nhân sâu xa là do giới hạn tự nhiên "nhân vô thập toàn"của con người và do hậu quả của tội nguyên tổ, khiến mỗi người đều có những giới hạn, yếu đuối và tội lỗi trong đời sống nhân linh.

2. Lý Do Và Kết Quả Của Sự Thứ Tha và Hòa Giải trong Gia Ðình:

Lý do tại sao phải thứ tha và hòa giải giữa những người trong gia đình và kết quả của việc thứ tha và hòa giải, xét về mặt tự nhiên, là một cuộc sống thuận hòa đem lại hạnh phúc, bình an và thành công cho gia đình. Ca dao Việt Nam có câu:

"Vợ chồng là nghĩa Tào Khang,

Chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui,

Sinh con mới ra thân người,

Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm vui..."

"Thuận vợ thuận chồng, tát bể Ðông cũng cạn".

Còn xét về mặt siêu nhiên, thì gia đình thuận hòa, đầm ấm là điều mà Thiên Chúa mong muốn cho con người. Trong Tám Mối Phúc mà Chúa Giê-su công bố trong bài giảng trên núi, thì đã có những Bốn Mối Phúc có liên quan tới cuộc sống thuận hòa ấm êm giữa người với người ở trong gia đình cũng như ngoài xã hội: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa." (Mt 5, 3 - 4. 7. 9).

Hơn nữa trong Kinh Lạy Cha, chúng ta "xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con" (Mt 6, 12), có nghĩa là việc chúng ta thứ tha cho những người mắc lỗi, xúc phạm đến chúng ta là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi, yếu hèn và phản bội xúc phạm đến Người.

3. Các Ðiều Kiện Cần Có Ðể Có Thể Thứ Tha Và Hòa Giải Trong Gia Ðình:

a. Xét về mặt tự nhiên:

Muốn có sự thứ tha và hòa giải trong gia đình thì trước tiên, chúng ta phải có 2 điểm sau đây:

- Lòng yêu thương chân thực: "Yêu nhau trăm sự chẳng nề, dù trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng" hay: "Thương thì củ ấu cũng tròn, không thương quả bồ hòn cũng méo" (Củ ấu thì vốn méo còn quả bồ hòn thì vốn tròn .

- Sự nhường nhịn lẫn nhau: "Chồng giận thì vợ bớt lời, cơm sôi nhỏ lửa mấy đời mà khê" hay: "Chồng giận thì vợ bớt lời, chồng giận vợ giận thì dùi nó quăng", hay: "Chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười hớn hở thưa anh giận gì? Thưa anh, anh giận em chi? Muốn cưới vợ lẽ, em thì cưới cho" (Câu cuối chỉ là kế hoãn binh để chồng bớt giận, bớt nóng mà thôi).

b. Xét về mặt siêu nhiên:

Ở mặt quan trọng này, chúng ta cần phải có 4 điểm sau đây:

- Tâm hồn khiêm nhường, tinh thần hy sinh, lòng bao dung quảng đại, và nhất là Ðức Ái Ki-tô Giáo: "Ðức Ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức Ái tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả" (1 Cr 13, 4 - 7).

- Nỗ lực sống theo Phúc Âm: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" (Mt 5, 3 - 4. 7. 9).

- Ðời sống cầu nguyện: sẽ đem lại cho chúng ta sức mạnh để chúng ta vượt thắng chính mình. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta "xin tha tội cho chúng con, như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con". (Mt 6, 12), có nghĩa là việc chúng ta thứ tha cho những người mắc lỗi, xúc phạm đến chúng ta là điều kiện để chúng ta được Thiên Chúa tha thứ tội lỗi, yếu hèn và phản bội xúc phạm đến Người.

- Siêng năng đón nhận các Bí Tích: nhất là Bí Tích Thống Hối Hòa Giải và Thánh Thể. Bí Tích Thống Hối Hòa Giải chẳng những sẽ xóa tan mọi tội lỗi và đem lại bình an thâm sâu cho tâm hồn chúng ta mà còn cho chúng ta cơ hội cảm nghiệm lòng thương xót bao la của Thiên Chúa đối với chúng ta là người đầy tội lỗi và yếu hèn. Chỉ khi nào cảm nghiệm sâu sắc về tình thương tha thứ ấy của Thiên Chúa, chúng ta mới có đủ sức mạnh để dễ dàng tha thứ cho vợ hay chồng, cho cha mẹ hay con cái của mình. Còn Bí Tích Thánh Thể sẽ đưa chúng ta vào mối hiệp thông yêu thương với Thiên Chúa và với tha nhân, trước hết là với những người thân trong gia đình của chúng ta.

 

Tạm Kết

Một gia đình yêu thương đầm ấm là Thiên Ðàng dưới thế. Một gia đình bất hòa, chia rẽ, ghen ghét nhau thì quả là địa ngục trần gian. Ai cũng muốn sống trong Thiên Ðường và chẳng ai thích sống trong địa ngục. Cho nên điều tối quan trọng là làm thế nào để gia đình mình thành Thiên Ðường dưới thế. Việc ấy không vượt quá khả năng của chúng ta, miễn chúng ta biết tận dụng những điều kiện thuận lợi tự nhiên và những ơn trợ lực siêu nhiên mà Thiên Chúa Tình Yêu sẵn sàng ban cho chúng ta.

Lạy Thánh Gia Na-da-rét, xin ban cho gia đình chúng con ơn trên thuận dưới hòa, trong ấm ngoài êm, yêu thương, hạnh phúc. Amen.

 

Gs. Giê-rô-ni-mô Nguyễn văn Nội

 

_______________________________________________________________

 

Tôi Làm Chồng Làm Cha Như Thế Nào

Qua Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa

 

 

 

Dưới đây là những chia sẻ hết sức chân thành và sống động của một người chồng, một người cha trong một kỳ giảng Tĩnh Tâm dành cho các Gia Ðình, Mùa Vọng 2002 vừa qua tại Giáo Xứ Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp, Kỳ Ðồng, Sài-gòn. Chúng tôi xin được đăng nguyên văn, hy vọng sẽ có nhiều người đồng cảm, hoặc được gợi lên những suy nghĩ và cảm nhận khác về đời sống hôn nhân và Gia Ðình Công Giáo...

Một người cha được Linh Mục sở tại và hàng xóm láng giềng kính trọng vì có đời sống đạo hạnh, nhân đức. Ngày kia, ông chứng kiến con trai còn niên thiếu của mình chết tan xương nát thịt do một tai nạn bất ngờ chụp lên đầu con ông. Số là từ bên kia đường, sau khi tham dự Thánh Lễ, con ông băng qua đường để về nhà, nhưng thật oái oăm, chiếc xe khách chạy hết tốc lực trên đường liên tỉnh đã nuốt chửng con ông trước sự bàng hoàng sửng sốt của ông và của những người chứng kiến.

Sau biến cố đầy máu và nước mắt ấy, ông chập choạng bước đi trong bóng đêm của lòng tin. Một bóng đêm tưởng chừng ông không thể vượt qua được. Ông luôn đặt câu hỏi đại loại như: Sao Chúa lại để cho con ông phải chết thảm như vậy? Ông có làm điều gì đại nghịch mất lòng Chúa đâu? Tình thương của Chúa ở nơi nào? Thiên Chúa của ông ở đâu? v.v...

Ðó là câu chuyện có thật do một Linh Mục kể cho tôi và học viên lớp Kinh Thánh nghe khi ngài giảng dạy. Kể lại câu chuyện ấy tôi muốn nói rằng, sống đời hôn nhân và Gia Ðình, tôi cũng đã trải qua những đêm tối của lòng tin vào Thiên Chúa tương tự như vậy.

Kính thưa cộng đoàn, năm nay tôi 54 tuổi đời, 31 tuổi nghề dạy học và sống ơn gọi hôn nhân 27 năm 7 tháng 9 ngày. Do biến cố 30.4.1975, hai vợ chồng tôi không có xe hoa để bước lên, không có phòng tiệc để bước vào, không có pháo hoa và những tràng vỗ tay của thực khách để chúc mừng, thậm chí cũng chẳng có một bữa ăn gọi là ăn cưới giữa Gia Ðình hai họ, nhưng chúng tôi lại được Thiên Chúa chúc phúc qua việc cử hành bí tích hôn phối do một Linh Mục DCCT thay mặt Giáo Hội chứng hôn.

Có một điều thật ngây thơ giữa hai vợ chồng chúng tôi. Ðó là sau Thánh Lễ Hôn Phối, mạnh ai nấy về nhà của mình. Tôi muốn nói nàng về nhà nàng nàng ngủ, tôi về nhà tôi tôi ngủ. Nhà ai nấy ở. Cơm ai nấy ăn. Chỉ không bao lâu sau ngày cưới, Bác Hai của nàng, là tu sĩ DCCT, chỉ bảo cho, vợ chồng chúng tôi mới sống hòa hợp với nhau.

Giai Thoại với vợ của tôi: Sau đây xin được kể tạm gọi là "giai thoại" về những khó khăn trở lực dễ gây đỗ vỡ mà một người chồng như tôi đã phải trải qua khi sống với nàng. Xin được chia sẻ với cộng đoàn hai tính cách đặc biệt của vợ tôi:

Trước hết, nàng là một phụ nữ có cá tính mạnh mẽ của đàn ông: cương quyết và chỉ huy. Nàng là chị hai của bảy người em. Các em của nàng dù đã sống đời đôi bạn có con cái vẫn kính trọng nàng. Một điều chị Hai, hai điều chị Hai. Một lần nữa tôi muốn nói rằng nàng là một con người chỉ huy, một con người có đầu óc tổ chức, dám làm dám chịu. Biết được vợ mình như thế, tôi chỉ còn có cách sống với nàng bằng một tinh thần nhân nhượng lùi bước để mọi chuyện được êm xuôi mỗi khi biển động sóng trào trong Gia Ðình.

Tiền lương của tôi cùng những khoản tiền khác có được tôi đều giao hết cho nàng để nàng vun quén trong Gia Ðình, góp phần chu toàn bổn phận làm vợ, làm mẹ. Tôi biết điều đó cũng làm nàng vui vẻ và tôi bằng lòng như vậy. Nhiều đồng nghiệp nam nữ khuyên tôi, sao thầy không lập quỷ đen quỷ đỏ để tiêu xài, ăn nhậu cho thỏa thích, và để phòng khi vợ bỏ thì có tiền mà sống. Tôi chỉ cười trừ vì họ đâu biết tôi hết lòng yêu thương vợ con. Có thể nói dí dõm là tôi đã khấn và tuân giữ đức khó nghèo trong đời sống hôn nhân như vậy đó.

Tiếp đến, nàng có tính cách của một nữ tu. Cộng đoàn biết rõ, tu sĩ có ba lời khấn truyền thống của Giáo hội: đó là vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh. Tôi đã từng sống đời tu trì. Vâng phục đối với tôi thật dễ dàng. Khó nghèo, tôi sống đời khổ tu được và không hề than khổ. Nhưng khiết tịnh quả thực là khó đối với tôi. Thế mà tôi đã phải chịu thử thách lớn. Nàng sống đời vợ chồng với tôi nhưng luôn miệng khuyên tôi giữ đức khiết tịnh hiểu theo nghĩa giữ lời khấn khiết tịnh của tu sĩ Công Giáo.

Ðây là một nỗi đau khổ của tôi, có những lúc tôi bị khủng hoảng trầm trọng và nghĩ rằng sao mình lại chọn lầm người đến như thế. Ðã nhiều lúc tôi nghĩ đến việc ly dị theo thói người đời để tìm sự khuây khỏa cho mình, đã có những lúc tôi muốn bỏ nhà đi hoang nhưng không hiểu sao Chúa lại quan phòng gìn giữ tôi, giúp tôi vượt qua sóng gió và được bình an đến ngày hôm nay.

Dù vậy, nàng cũng đã ban tặng cho tôi hai đứa con: trai 25 tuổi và gái 23 tuổi. Xin tạ ơn Chúa, xin cảm ơn nàng. Ðã có con, hẳn phải lo giáo dục con. Giáo dục con cái theo đường lối Chúa, theo truyền thống Giáo Hội quả thực là điều tôi chưa ý thức hết. Giáo dục theo tính cách nhân bản người đời cũng đã lắm nhiêu khê nói chi đến đường lối Chúa và truyền thống Giáo Hội.

Xin được kể một mẩu chuyện về con trai tôi: Một tối nọ, tôi không còn nhớ vợ tôi đã rầy la con như thế nào, chỉ biết là con tôi bỏ nhà đi. Ðến 10 giờ tối vẫn không thấy bóng con về, tôi cồn cào ruột gan, lòng nóng như lửa đốt. Bình thường, 8 giờ tối Gia Ðình đọc kinh chung; các con không được ra khỏi nhà từ giờ này. Năm đó cháu học lớp 11, ngày hôm sau phải thi học kỳ một. Là nhà giáo tôi hiểu rõ giá trị của những kì thi như vậy. Phải thi và đủ điểm, nhà trường mới cho lên lớp. Nếu bỏ thi không lý do chính đáng xem như phải ở lại. Có lẽ vợ tôi không biết rằng hôm sau con mình phải thi học kỳ nên đã vô tình tạo khủng hoảng cho con.

Ðêm hôm đó, một mình với chiếc xe đạp, tôi cọc cà cọc cạch đi dọ hỏi khắp nhà các bạn của con tôi để tìm con về. Tôi vốn có tính kỹ lưỡng trong quan hệ bạn bè của con: ghi địa chỉ hoặc điện thoại của các cháu để phòng khi bất trắc. Tạ ơn Chúa, tôi đã gặp được con, nhưng phải thuyết phục hồi lâu, con trai tôi mới chịu lên xe đạp để tôi chở về. Về đến nhà, tôi vội tạo điều kiện để con ngủ yên giấc. Và hôm sau chính tôi phải chở cháu đi thi. Trên đường đến trường tôi luôn động viên con, nói chuyện với con, giải thích để con hiểu và thông cảm cho mẹ và biết thương cha mẹ cực khổ mà không xem thường việc học hầu lo cho tương lai bản thân.

Tính từ thời điểm này, cách đây hơn hai năm, con trai tôi đã vào hoang mạc hiểu theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng để sống thân mật với Chúa và trui rèn bản thân qua sự dẫn dắt của các Cha Thầy... Cách đây hai hôm, ngày 10.12.2002, tôi có viết cho con trai tôi một bức thư. Xin trích đọc hai đoạn ngắn để thấy được tình thương của tôi dành cho con và cũng thấy được sự chuyển biến của con tôi trước mặt Chúa và trước mặt cha mẹ. Xin đọc:

..."Nguyện xin Thiên Chúa là Cha và Mẹ Hằng Cứu Giúp luôn nâng đỡ, phù trợ con theo thánh ý Chúa. Mong con luôn vui khỏe, bình an, học hành tiến bộ và đường tu đức mỗi ngày cũng đẹp lòng Chúa hơn... Nghe má kể lại con đã bỏ thuốc lá hơn hai tuần nay để làm quà, làm máng cỏ thiêng liêng dâng Chúa Hài Ðồng, ba mừng lắm. Cố gắng nhưng vẫn luôn trông cậy vào ơn Chúa, nhờ Người giúp sức chứ không được cậy sức mình, con nhé!"

Chuyện con gái của tôi: Chuyện của con trai tôi là như thế đó. Giờ đây, cũng xin được kể một giai thoại về con gái của tôi. Cháu bị cận thị từ lúc học lớp 6 nhưng lại không chịu sắm kiếng. Khi sắm kiếng lại không chịu mang vào. Mỗi năm trung bình tăng một độ. Tôi hốt hoảng chở cháu đi thử mắt rồi lại thay kính thường xuyên và gặp các chuyên gia, nhờ họ giải thích, thuyết phục con tôi mang kính để ngăn chặn sự tăng độ. Mãi về sau, con gái tôi mới biết nghe lời và chấp nhận mang kính cho đến ngày hôm nay. Ðộ có tăng nhưng so với trước thì không đáng kể. Chuyên gia khuyên phải đeo kính luôn kể cả lúc không làm việc. Chỉ bỏ kiếng ra khi nào ngủ. Hễ thức dậy là phải mang kính vào.

Kính thưa cộng đoàn, trải qua thời gian hơn hai mươi bảy năm sống đời hôn nhân Gia Ðình Công giáo, tôi cảm nghiệm được là: Thiên Chúa đã quan phòng và yêu thương tôi dù nhiều khi tôi không ý thức đủ điều đó và cũng không nhớ đến Người. Và đặc biệt hơn tôi nhận ra sự bất lực của mình trong nhiều vấn đề.

Những lúc ấy, nếu tôi cầu nguyện theo kiểu xin - cho, bắt Chúa làm theo ý tôi. Sau này, nhờ học hỏi và nhờ các Linh Mục DCCT hướng dẫn tôi mới biết đó là kiểu cầu nguyện lấy dây buộc chặt tay Chúa, không để Người thi thố quyền năng và tình thương của Người. Kết quả là khó khăn, tệ hại vẫn còn đó; còn ngược lại nếu tôi biết chúc tụng ngợi khen Chúa, xin thánh ý Người thể hiện trên vợ, trên con, trên biến cố cuộc đời dẫu rằng biến cố ấy có bi thương như câu chuyện về cái chết bi thảm của người con trai của một người cha ngoan đạo đã kể trên thì lúc ấy tôi mới rõ được quyền năng và tình thương của Chúa kỳ diệu như thế nào!

Chúng ta vẫn nhớ câu chuyện Chúa Giê-su đã cho La-da-rô sống lại từ cõi chết. Tôi tin rằng Chúa vẫn làm điều đó cho ngày hôm nay. Chỉ có điều là tôi cầu nguyện thế nào cho Danh Chúa được cả sáng và đức tin của tôi có đủ mạnh để chấp nhận biến cố cuộc đời như là món quà mà Thiên Chúa tặng ban hay không để qua đó biết chúc tụng, ngợi khen Người, và nhờ vậy, Người tiếp tục thánh hóa và ban ơn cứu độ cho tôi, cho Gia Ðình tôi ngay khi tôi sống ở trần gian này.

Ðể kết luận, xin cộng đoàn cùng lắng nghe lời khuyên của một Linh Mục giải tội khi tôi xưng tội với ngài. Ngài nói: "Ðạo Công Giáo của chúng ta không phải là đạo khoán trắng mọi sự cho Chúa. Trong thử thách gian truân, con hãy đứng vững trên đôi chân của mình, cố gắng chu toàn bổn phận, cầu nguyện và phó thác không ngừng, con sẽ thấy được quyền năng và tình thương của Chúa thể hiện trên con".

Cuối cùng, con thành thật cảm ơn cha chủ tế đã cho phép con được làm chứng hôm nay. Vì vâng lời cha, con đã đứng đây để nói lên cảm nghiệm thật của đời mình. Mong rằng sẽ mang lại ích lợi phần nào cho cộng đoàn. Xin cảm ơn cộng đoàn đã chăm chú lắng nghe. Kính chúc cha chủ tế và cộng đoàn được tràn đầy hồng ân Chúa Hài Ðồng trong đại lễ Giáng Sinh sắp đến.

Lạy Thánh Cả Giu-se là Ðấng Bảo Trợ các Gia Ðình, xin Ngài cầu thay nguyện giúp cho chúng con trước tòa Chúa. Lạy Mẹ Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, xin Ngài giúp chúng con biết giáo dục con cái theo đường lối Chúa, đường lối Giáo hội. A-men.

 

Gs. Gio-a-kim Phạm Văn Lượng, 12.12.2002