GIÁO HỘI BỊ BỊT MIỆNG

Ðinh Từ Thức

Từ khi bức hình cha Lý bị bịt miệng lan truyền khắp thế giới, có nhiều cá nhân và tổ chức, tại nhiều nơi, từ nhiều nước đã lên tiếng. Ngày 19 tháng 4 năm 2007, toàn thể các dân biểu thuộc Ủy ban Ngoại giao Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua một nghị quyết, với những lời lẽ mạnh mẽ, như: “Cha Lý bị bắt giữ và kết án hoàn toàn vì lý do chính trị, một cố gắng đáng xấu hổ để ông phải im lặng và đe doạ bất cứ ai dám lên tiếng chống lại chính quyền. Chúng ta có bổn phận lên tiếng cho cha Lý và những người bất đồng chính kiến khác bị bách hại tại Việt Nam”. Và ngày 2 tháng 5 năm 2007, với 404 phiếu thuận và không có phiếu chống, Hạ viện Hoa Kỳ đã thông qua nghị quyết trên. Riêng Giáo hội Công giáo Việt Nam, giáo hội mẹ của cha Lý, đến nay, vẫn hoàn toàn im lặng. Người ta có cảm tưởng Giáo hội Công giáo Việt Nam cũng đang bị bịt miệng.



Trong một xã hội văn minh, trước hình ảnh một con vật bị bạc đãi, thường sẽ có nhiều người lên tiếng. Chúng ta hãy khoan nói tới chuyện đúng sai trong việc làm của cha Lý. Mọi người đều có thể đồng ý rằng, qua bức hình bịt miệng, cha Lý đã bị bạc đãi và đã bị đối xử một cách man rợ theo tiêu chuẩn bình thường của xã hội loài người. Nếu cha Lý là một con vật, thì ít nhất, hội bảo vệ súc vật đã lên tiếng. Nhưng ở đây, cha Lý là một linh mục, vậy mà Giáo hội Công giáo Việt Nam vẫn im lặng. Chúng ta không thể hiểu được sự im lặng lạ lùng này, trừ khi, Giáo hội Công giáo Việt Nam đang bị bịt miệng.

Trước sự im lặng khó hiểu trên đây, đài phát thanh Á châu Tự do (RFA) đã phỏng vấn Hồng y Phạm Minh Mẫn, người đứng đầu Tổng Giáo phận Sài Gòn, để tìm hiểu nội vụ. Từ Washington D.C., phóng viên Mặc Lâm của đài này đã được Hồng y cho phỏng vấn bằng điện thư (email) vào ngày 20-4-07. Khi được hỏi: “Sau khi Linh mục Nguyễn Văn Lý bị bắt và kết án, ý kiến của Hội đồng Giám mục Việt Nam (HÐGMVN) về việc này ra sao?”, Hồng y Phạm Minh Mẫn đã trả lời:

“HÐGMVN đến tháng 10.2007 mới họp mặt. Nội dung chương trình do các Giám mục đề xuất. Cha Lý thuộc giáo phận Huế. Ðức Tổng Giám mục có đề xuất vấn đề hay không? Tôi nghĩ rằng tuỳ thuộc vào sự góp ý của cộng đồng dân Chúa tại Huế.

Vì lẽ, từ xa tôi không hiểu rõ nguyên nhân cũng như ý nghĩa thâm sâu của những nghịch lý trong cuộc sống của cha. Có lẽ chỉ có Huế mới thấu hiểu.” [1]

Câu trả lời trên đây rõ ràng có tính cách đưa đẩy. Trả lời như để khỏi phải trả lời. Nói khác đi, đó là câu trả lời của người đang bị bàn tay vô hình bịt miệng. Washington DC. xa Huế khoảng ba mươi lần Sài Gòn với Huế; trong khi các dân biểu Mỹ khẳng định rằng “Chúng ta có bổn phận lên tiếng cho cha Lý và những người bất đồng chính kiến khác bị bách hại tại Việt Nam”, thì vị Hồng y đứng đầu Tổng Giáo phận Sài Gòn lại dè dặt: “từ xa tôi không hiểu rõ nguyên nhân cũng như ý nghĩa thâm sâu của những nghịch lý trong cuộc sống của cha”. Trước hình ảnh một người bị bạc đãi, không cần biết người đó có phải là linh mục hay không, ít nhất, khó ai có thể bình thản nói rằng mình không có ý kiến vì chẳng hề biết người đó là ai. Thật ra, ngay trong câu trả lời, tuy nói ở xa không hiểu rõ, nhưng Hồng y cũng đã nhắc tới “những nghịch lý trong cuộc sống” của cha Lý. Những điều gì trong cuộc sống của cha Lý đã khiến đức Hồng y coi là “nghịch lý”?

Cách đây 30 năm, cha Lý là bí thư của Tổng Giám mục (TGM) Giáo phận Huế Nguyễn Kim Ðiền. Sau khi Hoà thượng Thích Quảng Ðộ bị bắt ngày 6-4-1977, Mặt trận Tổ quốc Bình Trị Thiên đã tổ chức cuộc thảo luận về vụ này vào ngày 15-4, có TGM Ðiền tham dự. Dịp này, TGM Ðiền thẳng thắn chỉ trích việc bắt giữ các nhà sư, và đồng thời cũng than phiền giáo dân Công giáo bị đối xử như các công dân hạng nhì. Linh mục Bí thư Nguyễn Văn Lý đã in lời phát biểu của TGM Ðiền thành nhiều bản, và bị bắt khi đang phân phối tài liệu này. Ông bị giam một năm, không xét xử.

Năm 1983, cha Lý lại bị bắt, vì không được phép nhưng vẫn tổ chức hành hương viếng Ðức Mẹ La Vang. Lần này, ông bị xử 10 năm tù; ông được tha năm 1992 nhưng bị cấm cử hành các lễ nghi phụng vụ. Lần thứ ba, ông bị bắt vào năm 2001 vì đòi hỏi tự do tôn giáo và được tha năm 2005. Ông bị bắt lần thứ tư vào Mùng hai Tết Ðinh Hợi vừa qua và bị xử 8 năm tù vào ngày 30-3, về tội tuyên truyền chống nhà nước XHCN, trong một phiên toà không có luật sư biện hộ nhưng có cảnh sát sắc phục trấn giữ hai bên, và công an thường phục đứng sau lưng bịt miệng. Phải chăng đó là những “nghịch lý trong cuộc sống” của cha Lý? Phải chăng, thay vì ngoan ngoãn ngậm miệng trước cường quyền, cha Lý đã mở miệng nhiều lần, nên bị coi là “nghịch lý”? Phải chăng vì những “nghịch lý” này mà các Ðấng trong Giáo hội Công giáo Việt Nam không thể lên tiếng?

Trong câu trả lời phỏng vấn, Hồng y Phạm Minh Mẫn có đề cập tới chi tiết HÐGMVN sẽ họp vào tháng Mười, và không biết hội đồng sẽ đề cập tới trường hợp của cha Lý hay không.

Cha Lý là người biết rõ về thủ tục làm việc của HÐGMVN. Ông đã viết trong “Lời chứng thứ hai” được đọc tại cuộc điều trần về tự do tôn giáo Việt Nam, tại Hạ viện Hoa Kỳ ngày 16-5-2001, xin trích nguyên văn một đoạn như sau:

“Từ năm 1980 đến nay, vào mùa hè hàng năm, Hội đồng Giám mục Việt Nam (HÐGMVN) đều có một kỳ họp. Trước đó, Ban Thường Vụ HÐGMVN phải báo cáo chương trình họp, thành phần tham dự, với Ban Tôn giáo của Việt cộng và xin phép. Ðang khi họp phải đi trình diện với Ban Tôn giáo, Chủ tịch nước, Thủ tướng, và thậm chí cả Tổng Bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam nữa. Khi trình diện phải nói những lời chúc mừng, biết ơn Việt cộng rất trái với lương tâm, vì phải cám ơn một tổ chức ăn cướp đang siết cổ Giáo hội mình gần chết. Sau khi họp, nếu có gửi kiến nghị gì cho bạo quyền, Thư chung gì cho Giáo hội thì phải xin phép bạo quyền duyệt xét cho phép mới được phổ biến. Kể cả các bản kiến nghị đòi hỏi các quyền cơ bản của Giáo hội mà cũng phải được Việt cộng cho phép mới được kiến nghị lên. Tức là muốn đấu tranh điều gì với Việt cộng thì phải xin phép Việt cộng trước”.

Với tình trạng trên, dù đợi tới tháng Mười, và dù có người đề xuất, trường hợp cha Lý cũng khó có thể được HÐGMVN bàn tới. Chẳng lẽ thẩm quyền đã bịt miệng cha Lý, mà lại đồng ý để HÐGMVN mở miệng bàn về vụ cha Lý?

Cùng ngày đài RFA phỏng vấn Hồng y Phạm Minh Mẫn, bài báo “Lời trối của cố Giám mục Nguyễn Quang Tuyến: ‘Giáo hội Công giáo Việt Nam đã bị thuần hoá’” của linh mục Nguyễn Hữu Lễ từ Tân Tây Lan đã góp phần vào việc giải thích thái độ im lặng của hàng giáo phẩm Công giáo Việt Nam. Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã bị 13 năm tù cải tạo, và ông đã bị đánh gần chết trong tù. Trước khi vượt biên năm 1988, ông làm bạn với linh mục Nguyễn Quang Tuyến. Khi ông tới Thái Lan, linh mục Tuyến trở thành Giám mục Ðịa phận Bắc Ninh.

Mười tám năm sau, vào đầu năm 2006, trong khi linh mục Lễ khởi phát Phong trào Quốc dân đòi trả tên Sài Gòn, và vận động cho phong trào này ở California, thì Giám mục Nguyễn Quang Tuyến chữa trị bệnh ung thư ở Portland, Oregon. Từ California, Linh mục Nguyễn Hữu Lễ đã nói chuyện điện thoại với Giám mục Nguyễn Quang Tuyến trong hơn một tiếng. Theo linh mục Lễ kể lại, qua câu chuyện, Giám mục Tuyến đã theo cách xưng hô của những người bạn cao tuổi tại miền Bắc, gọi ông là “Bác Lễ”, và nói nguyên văn những điều sau đây:

“Ðau đớn và nhục nhã lắm bác Lễ ơi! Những người nào được bọn ma quỷ cho chịu chức linh mục đều phải ký một tờ giấy cam đoan làm việc cho họ.”

“Việc bọn ma quỷ cho phép phong chức hơn 50 linh mục tại Hà Nội vừa qua là một trò hề. Chúng nó lợi dụng đạo Công giáo để đánh bóng cho chế độ. Càng có nhiều linh mục trẻ thì Giáo hội càng chết bác Lễ ơi. Tôi rất cẩn thận và hạn chế phong chức linh mục trong Giáo phận của tôi. ”

“Tôi làm gì có tiếng nói trong Hội đồng Giám mục. Họp hành chỉ là hình thức thôi. Mà thực ra Hội đồng Giám mục cũng chả có tiếng nói gì. Bọn Huỳnh Công Minh điều khiển tất cả”

“Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay đã bị THUẦN HOÁ cả rồi bác Lễ ơi. Từ Hồng y, Giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân đều đã bị THUẦN HOÁ cả rồi. Bác có hiểu nghĩa của THUẦN HOÁ không? THUẦN HOÁ cũng giống như người ta huấn luyện những con sư tử dạy chúng làm trò nhào lộn nhảy múa cho chủ lấy tiền ấy mà! Ðau đớn và nhục nhã lắm bác Lễ ơi.” [2]

Vẫn theo linh mục Lễ, ba chữ “bọn ma quỷ” đã được Giám mục Tuyến dùng để chỉ nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam, và điều quan trọng thứ 5, là vị Giám mục mang trọng bệnh đã hối thúc linh mục Lễ viết ra những điều trên đây, “Tuyến này sẽ làm chứng cho những lời bác viết.”

Rất tiếc là hơn nửa năm sau khi Giám mục Nguyễn Quang Tuyến qua đời, linh mục Lễ mới tiết lộ những tâm sự thầm kín trên đây, khiến có người đã chỉ trích rằng ông “nói thay cho người chết”. Một người xưng tên là FX Nguyễn Văn Thuận, giống hệt với tên vị cố Hồng y được số đông kính mến, và giống hệt giọng điệu kẻ cả của một linh mục cao tuổi từ trên toà giảng, giống cả thói quen của Thánh Phao Lồ khi viết thư cho đồng đạo, chỉ nói với “Anh em”, đã lên tiếng chỉ trích bài viết của cha Lễ, như sau:

Anh Em thân mến,

Tôi vừa đọc được bài "Lời trăn trối" của Cha Nguyễn Hữu Lễ, viết lại "những tâm tình" của Ðức cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến chia sẻ với Ngài trước khi chết, đang được phổ biến rộng rãi. Tôi xin góp ý với Cha Lễ và Anh Em mấy ý:

Ðừng đặt vào miệng người chết ngôn từ của người sống. Không cần phải thề thốt như Cha Lễ đã làm, càng tội nghiệp cho người đã khuất. Hãy để cho Ngài yên nghỉ. Ðiều Ngài muốn chúng ta làm hôm nay là xây dựng bình an, hiệp nhất. Ngài đang buồn lắm đấy, vì trở thành nạn nhân của chúng ta, khi chúng ta biến Ngài thành nhân vật gây chia rẽ cả sau khi đã chết.

Người ta chỉ "thuần hoá" thú dữ để chúng nên hiền lành. Giáo hội Việt Nam không phải là thú dữ để được người cộng sản thuần hoá, như người chết nói qua miệng Cha Lễ. Ngược lại, dường như Giáo hội vốn hiền lành đang tìm cách thuần hoá "thú dữ"...

Hãy so sánh Giáo hội Việt Nam và Giáo hội Trung Quốc. Thật đáng vui mừng và hãnh diện cho Giáo hội Việt Nam. Hãy biết ơn sự quả cảm và khôn ngoan âm thầm của các vị lãnh đạo Giáo hội Việt Nam, hôm qua và hôm nay.

Chúng ta sống trong đất nước tự do và "tranh đấu cho tự do", chúng ta hãy tôn trọng quyền tự do của mọi người, để họ được tự do nói hay tự do không nói. Cộng sản Việt Nam "bịt miệng" Cha Lý không cho Ngài nói. Chúng ta cho là là vi phạm nhân quyền. Chúng ta "cạy răng" người khác theo kiểu "ép cung", bắt họ phải nói điều họ không muốn nói vì một lý do lương tâm hay sự thật phũ phàng nào đó, chúng ta liệu có khỏi vi phạm nhân quyền và tự do của người khác không? Chúng ta chụp mũ người khác cách trắng trợn thì chúng ta không hơn gì cộng sản, ai sẽ tin vào "lý tưởng chống cộng" của chúng ta? Chúng ta hạn chế quyền tự do đi lại của các Giám mục, trong khi cộng sản lại bắt đầu tôn trọng - nhờ sự tranh đấu của chúng ta?! - Chúng ta hoá điên rồi sao?! Chúng ta lại phủ nhận công trình của chúng ta sao? [3]

Người viết bài này không quen cha Lễ, và không ủng hộ ông trong việc phát động Phong trào Quốc dân đòi trả tên Sài Gòn. Bởi vì, nếu ví Việt Nam như một cây cổ thụ, căn bệnh hiện nay cần trị ở gốc, trong khi đòi trả tên Sài Gòn giống như công kênh nhau chữa trị trên ngọn. Vừa tốn sức vô ích, vừa phân tán mục tiêu. Thành phố Volgograd bên Nga, đã bị đổi tên là Thành phố Stalin (Stalingrad) năm 1925. Sau khi Stalin bị Krushchev hạ bệ, Stalingrad đã trở lại với tên cũ Volgograd năm 1961. Khi Nga Hoàng suy vi, Cố đô Saint Petersburg bị đổi tên thành Petrograd năm 1914, và mười năm sau lại bị đổi thành Leningrad sau khi Lenin mất vào năm 1924, đã được trả lại tên cũ năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ. Việc làm của cha Lễ và những người ủng hộ ông khó mang lại kết quả, nếu cộng sản vẫn còn độc quyền cai trị như hiện nay. Ngược lại, khi tình hình thay đổi, Sài Gòn sẽ trở lại tên cũ. Vậy hãy chú trọng vào việc trị bệnh ở gốc, đừng trị ở ngọn.

Nhưng qua bài viết về cố Giám mục Nguyễn Quang Tuyến, tôi nghĩ Cha Lễ đã trình bày sự thật. Ðồng thời, tôi cũng thấy lối góp ý của ông FX Nguyễn Văn Thuận rất đặc biệt, nên xin được hoạ lại như sau:

Anh chị em thân mến,

Tôi vừa được đọc bài “Lời trăn trối” của cha Lễ, và cả bài “Nói thay cho người chết” của ông FX Nguyễn Văn Thuận đã được phổ biến rộng rãi. Tôi xin góp với cha Lễ, ông Thuận, và anh chị em mấy ý:

Cha Lễ đã thề rằng ông chỉ nhắc lại nguyên văn những gì Ðức cha Tuyến đã nói với ông, cho nên, ông không đặt vào miệng người chết ngôn từ của người sống. Ông chỉ lặp lại ngôn từ của người chết. Không nên thề vặt, nhưng trong những trường hợp nghiêm trọng, trước toà án thường cũng như toà án lương tâm, cần có lời thề để bảo đảm sự trung thực. Nếu có tội nghiệp, là tội nghiệp cho người thề, vì phải đem danh dự ra để bảo đảm cho lời nói của mình. Chẳng tội nghiệp cho ai khác. Ông FX Nguyễn Văn Thuận có dám thề rằng tên của mình đúng như vậy không? Nếu người khác đã tin cẩn nhờ mình làm việc gì, thì phải giữ lời hứa. Nhất là người nhờ mình không còn có mặt trên thế gian này, thì càng cần phải làm cho sớm, vì người chết không còn có thể tự làm lấy được nữa. Thực hiện được ý muốn nhờ cậy của người chết, chính là giúp người ấy vui lòng nơi vĩnh cửu. Không được nghe lời trăn trối mà nói rằng người chết muốn ta làm điều này điều kia, và nói rằng “Ngài đang buồn đấy”, chính là nói thay cho người chết.

Giáo hội thuộc về xã hội loài người, mà loài người nhất định không thể là thú dữ. Nhưng loài người có thể mạnh hơn, và dữ hơn thú dữ. Lịch sử cổ kim Ðông Tây có thể chứng minh điều này. Dữ như cộng sản, Hồ Chí Minh vẫn sợ Công giáo, và năm 1946 đã phải mời Giám mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao cho chính phủ. Nếu Giáo hội vốn hiền lành, thì sau đó không thể chống chọi với cộng sản, thành lập và giữ được Khu Tự trị Bùi Chu - Phát Diệm trong 2 năm 4 tháng, vào đầu thập niên 50. Vốn hiền lành mà tính chuyện thuần hoá thú dữ là điều nghịch lý.

Hãy so sánh Giáo hội Công giáo Việt Nam và Giáo hội Công giáo Ba Lan. Thật đáng buồn và hổ thẹn cho Giáo hội Công giáo Việt Nam. Sự quả cảm và khôn ngoan âm thầm không thể đi đôi với nhau. Quả cảm là can đảm đương đầu với cường quyền, như các cố Tổng Giám mục Nguyễn Kim Ðiền và cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Ngược lại, “khôn ngoan âm thầm” gần gũi với thái độ “ngậm miệng ăn tiền”.

“Tranh đấu cho tự do”, chúng ta tôn trọng quyền căn bản của con người được tự do nói, hay tự do không nói. “Bịt miệng” và “cạy răng” đều vi phạm nhân quyền. Một đứa trẻ khi lên hai ba tuổi thường bắt đầu tập nói. Nếu không thấy nó nói, thì người thân lo ngại, phải tìm hiểu nguyên do. Giáo hội Công giáo Việt Nam như một thanh niên đã sống với cộng sản 32 năm, chỉ kém một năm so với tuổi thọ của Chúa Giêsu ở trần gian, mà vẫn không nói, ắt là có vấn đề. Chúng ta không nên chụp cho thanh niên ấy cái mũ “Câm”. Tìm hiểu tại sao có hiện tượng không nói, để có thể chữa trị, không phải là “cạy răng” theo kiểu ép cung. Chúng ta tranh đấu cho mọi người có quyền “tự do đi lại”. Không phải là thứ đi lại có điều kiện ngầm, như trường hợp của Tổng Giám mục Stanislaw Wielgus dưới thời cộng sản Ba Lan. [4] Chúng ta không được phán xét hàng Giáo phẩm Việt Nam về những việc làm mình không biết rõ. Nhưng nếu có những ai đã nhận điều kiện của cộng sản để được xuất ngoại, như TGM Wielgus đã làm, là điều đáng xấu hổ. Chỉ có những người hoá điên mới tranh đấu cho cái kiểu đi lại ô nhục đó.

Bài của ông FX Nguyễn Văn Thuận nêu ra tới 8 điểm, bài của tôi không phải chỉ để đáp lại bài này, nên xin hoạ lại một nửa thôi, vì muốn dành chỗ cho những quan điểm khác nữa.

Cùng ngày xuất hiện của bài “Nói thay cho người chết” trên đây, website của VietCatholic ngày 24-4-07 đã phổ biến bài phỏng vấn Giám mục Nguyễn Văn Hoà, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam. Người phỏng vấn là linh mục Trần Công Nghị, đứng đầu VietCatholicNews. Trả lời về trường hợp cha Lý và phiên toà bịt miệng mới đây, Ðức cha Hoà nói: “Việc cha Lý hay bất cứ ai bị ra toà và bị đi tù thì đó là trường hợp thương tâm. Riêng hình ảnh bịt miệng thì tự nó nói lên rất nhiều điều”.

Ðức cha Hoà hầu như đã không nói gì qua câu trả lời trên đây. Nhưng cũng giống như hình ảnh bịt miệng, tự câu trả lời đã nói lên rất nhiều điều. Cái điều thương tâm nhất, đó là câu trả lời của một người bị bịt miệng. Trả lời câu hỏi kế tiếp của cha Nghị về những dư luận chỉ trích rằng “Hội đồng Giám mục Việt Nam hèn nhát không dám nói lên tiếng nói lương tâm của mình hoặc bị cái lợi thế trần gian, hoặc vì muốn xây dựng nhà cửa hay vì chuyện nọ chuyện kia mà không dám lên tiếng để bênh vực cho những người không có tiếng nói”, Ðức cha Hoà đáp rằng: “Tôi xin nói trường hợp cụ thể của tôi. Nhiều người đã biết rằng Toà Thánh chỉ định tôi về Hà Nội nhưng cuối cùng điều đó không được chấp nhận. Sự kiện ấy cũng nói lên là lập trường của tôi như thế nào. Tôi đã phải tranh đấu làm sao, kiên trì trong lập trường đó như thế nào.”

Ðức cha Hoà đã chỉ trả lời kiểu bị bịt miệng như trên, mà cộng sản vẫn không đồng ý cho Ngài về Tổng Giáo phận Hà Nội, dù đã được Toà Thánh chỉ định. Ðiều này chứng tỏ cộng sản có quyền lớn hơn Toà Thánh, kể cả những việc bổ nhiệm trong phạm vi nội bộ Giáo hội. Ðiều thứ nhì, Ðức cha Hoà “tròn trịa” như vậy, mà vẫn không được cộng sản chấp nhận. Vậy Hồng y Phạm Minh Mẫn, và Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt phải như thế nào, khiến cộng sản đã đồng ý cho các ngài về Sài Gòn, và Hà Nội?

Sau đây là nguyên văn câu hỏi kế tiếp của cha Nghị, và nguyên văn câu trả lời của Ðức cha Hoà:

Cha Nghị: Vậy, thưa Ðức cha nghĩ gì về vấn đề linh mục làm chính trị hay Giáo hội dấn thân vào vấn đề chính trị, thì sự suy nghĩ của Ðức cha như thế nào? Ðức cha có thể chia sẻ với chúng con được không?

Ðức cha Hoà: Theo chúng tôi, ai cũng có quyền phát biểu về công bằng, về sự thật, về các quyền lợi xã hội, nhưng (các linh mục) tham gia vào chính trị đảng phái đó thì sẽ gây chia rẽ. Lý do là thế này vì đó chỉ một phần thôi, đảng tức là một phần thôi, theo phần này bỏ phần kia và mỗi một phần đó lại thay tuỳ theo cái nhu cầu tuỳ theo trường hợp, mà chân lý của Chúa thì không có thể xoay như cái chong chóng như vậy được đâu. Chúa muốn sai linh mục tới làm việc cho mọi người, chứ không phải cho nhóm này chống lại nhóm kia. Thành ra, nếu linh mục làm chính trị thì thay vì gây sự đoàn kết, thì gây thêm sự chia rẽ. Tôi cũng được biết thêm nữa là linh mục Nguyễn Văn Lý, sau khi ra tù lần thứ hai, thì cha Lý được Ðức tổng Giám mục Huế đưa tới xứ An Truyền giới thiệu với cộng đồng dân Chúa ở đó, và trong khi đáp từ thì cha Lý đã xin lỗi và cũng nói lên ý rằng sẽ vâng lời Ðức Tổng trong mọi sự ngoại trừ công việc chính trị thì cha Lý xin phép là không vâng lời Ðức Tổng. Ðây là điều không những tôi mà nói chung là các Giám mục không thể hiểu được. Như Cha, Cha cũng biết đó, Cha sống ở bên Hoa Kỳ này nếu một linh mục không vâng lời Giám mục thì Cha thấy cái gì sẽ xảy ra. [5]

Người viết bài này xin phép được hỏi ké Ðức cha Hoà vài điều: Từ mấy chục năm nay, cha Lý đã tích cực tranh đấu đòi nhân quyền, trong đó có tự do tôn giáo. Nhân quyền và chính trị là hai lãnh vực khác nhau. Chính trị có thể thay đổi, nhưng nhân quyền là chân lý, ở đâu cũng thế, thời nào cũng thế. Những điều cha Lý tranh đấu từ ba mươi năm trước, bây giờ vẫn còn nguyên giá trị, và vì chưa đạt được, khiến ông vẫn phải tiếp tục tranh đấu. Những người như Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ là các linh mục hoạt động chính trị. Bây giờ, nếu theo Ðức cha, cứ coi như cha Lý cũng là người hoạt động chính trị. Vậy, tại sao cha Minh, cha Cần, cha Từ hoạt động chính trị theo Ðảng Cộng sản thì được, còn cha Lý hoạt động chống cộng thì không được?

Về đức vâng lời, Ðức cha Hoà nói rằng cha Lý đã từ chối vâng lời bề trên về công việc chính trị, khiến chính Ngài và các Giám mục khác không thể hiểu được. Linh mục Phan Văn Lợi là bạn của cha Lý nói rằng, theo video và bài tường thuật về lễ nhậm chức của cha Lý tại An Truyền ngày 5-12-2001, thì cha Lý không nói như thế. Nhưng giả sử cha Lý có nói như thế, thì đó cũng là điều có thể hiểu được, và không nên so sánh với sinh hoạt bên Mỹ. Ðức cha Hoà và các Giám mục Việt Nam “không thể hiểu được” cha Lý, người nguyên là phụ tá của TGM Nguyễn Kim Ðiền, người từng cám ơn bổn đạo “đã cầu nguyện cho tôi biết nói khi phải mở miệng”, là vì các Ngài đã được hay bị thuần hoá; các Ngài đang theo con đường “hiệp nhất” qua “khôn ngoan âm thầm”. Một bên chủ trương ngậm miệng còn một bên cố gắng mở miệng thì làm sao có thể hiểu được nhau. Lại nói thêm về đức vâng lời, người viết xin kinh cẩn hỏi Ðức cha Hoà: Hiện nay, các Linh mục Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, và Phan Khắc Từ có vâng lời các Ðấng trong HÐGMVN không, hay ngược lại, các Ðấng đang phải vâng lời các linh mục này?

Việc so sánh thái độ của cha Lý với thực tế bên Mỹ là điều không nên vì hoàn cảnh trái ngược nhau. Bên Mỹ, người ta cố gắng để thần quyền không chi phối thế quyền. Ở Việt Nam, thế quyền chi phối thần quyền. Bên Mỹ không có linh mục quốc doanh, và Giám mục thuần hoá, nên không làm nảy sinh những linh mục tranh đấu. Ðem việc chỉ có thể xảy ra ở Việt Nam để so sánh với một việc không thể xảy ra bên Mỹ là một việc làm không đi tới đâu.

Ðọc tâm sự của cố Giám mục Nguyễn Quang Tuyến qua lời kể của cha Lễ, có người đã phải giật mình. Nhiều giáo dân Công giáo đã chạy ra ngoại quốc để tị nạn cộng sản. Trong số này có nhiều người phải làm nghề móng tay đã kiếm sống. Hằng ngày, họ đã không ngại hít vào những hoá chất có hại cho cơ thể, lấy một phần lợi tức để gửi về nuôi Giáo hội Mẹ. Họ không hề biết rằng Giáo hội ấy đang âm thầm biến thành Giáo hội quốc doanh, do cộng sản chi phối. Ít nhất, Trung Quốc hiện nay còn có hai Giáo hội: một Giáo hội quốc doanh và một Giáo hội chui. Việt Nam chỉ có một Giáo hội, khi tiến trình quốc doanh hoá hoàn tất, nhiều người chẳng còn chỗ để mà chui!

Trong lời nhắn nhủ trước khi kết thúc phỏng vấn, Ðức cha Nguyễn Văn Hoà đã nói: “Chúng ta phải có đời sống thế nào quy tụ mọi cố gắng của mọi người trong một đời sống hiệp nhất. Nếu không có hiệp nhất, nếu người này chống đối người kia, người ở ngoài chống đối người ở trong v.v... thì tất cả những thế lực chống đối Giáo hội, người ta mừng lắm”.

Người viết cũng xin kết thúc bài này bằng niềm suy nghĩ: Nếu trước kia, Chúa Giê-su đã dùng 33 năm của cuộc đời mình ở thế gian này để theo con đường hiệp nhất với mọi người, nhất là với giai cấp thống trị, thì đã chẳng có Giáo hội Công giáo.