-------Có một mùa xuân đang tới
![]() |
Hải đảo Nguồn: unesco.org |
![]() |
Hải đảo Nguồn: unesco.org |
– Đây là một hoang đảo có khí hậu trong lành, cây cối tươi mát, khác hẳn với đất liền chỉ cách vài dặm đường toàn vùng nước mặn đồng chua và đầy muỗi mòng đỉa vắt. Rừng núi trên đảo này hiền hoà và có dáng dấp của một cánh rừng thưa trong vùng ôn đới Âu Châu hơn là rừng rậm nhiệt đới. Rừng xào xạc lá khô rơi, bước đi nghe lạo xạo, không có cái cảm giác ẩm ướt nồng nặc mùi nát mục của lá. Ăn uống cực khổ thật, nhưng ở thì sướng như tiên. Trong khi miệt Cà Mau nổi tiếng với nhiều muỗi đến có thể bốc được thì trên đảo này ngủ không cần mùng màn, mùa hè không có một con, mùa mưa thì thỉnh thoảng mới nghe một hai tiếng vo ve. Dòng nước suối ở đây mới tuyệt, vì thế có tên là Suối Tiên. Mọi người trên đảo đều dùng nước suối để ăn uống tắm rửa, không cần đun sôi tẩy trùng mà hằng bao nhiêu năm chẳng ai đau ốm bịnh hoạn gì. Theo truyền thuyết xưa được kể lại, khi chưa có dấu chân người, các tiên nữ trên trời những lúc rảnh rỗi thường xuống chơi đùa tắm giặt trên dòng suối này nên đã để lại hương thơm và sự dịu mát cho nguồn nước, hay vì dòng nước quá thơm mát đến cả tiên nữ cũng mê mẩn. Kể ra thì cái nào cũng có lý. Sau này, khi có tàu đánh cá khám phá ra nguồn nước ngọt thần tiên này rồi loan báo cho nhiều người khác đến lấy, làm mất sự bình lặng và thoát tục của đảo nên bầy tiên nữ bỏ suối không trở lại nữa, trước khi đi còn cảnh cáo: sẽ có một ngày đảo gặp một tai họa. Đơn vị chúng ta lấy tên Hải Đảo Giáng Tiên có lẽ theo truyền thuyết đó.
Sau này, ghe thuyền đánh cá đến lấy nước thường hay có sự tranh giành ẩu đả nên thời Đệ Nhất Cộng Hoà, chính quyền gửi một toán lính bảo an ra trấn giữ an ninh trật tự. Toán lính này thiếu trách nhiệm, bê bối chểnh mảng việc canh gác nên có một ngày một bọn đặc công Việt cộng giả dạng dân chài, trà trộn vào đám ghe thuyền ghé vào đảo lấy nước rồi trốn ở lại trên núi, một vài tên gài bán cho lính rượu có trộn thuốc mê. Đêm về chúng tấn công, đám lính say sưa không canh phòng bố trí bị chúng dùng giết sạch toàn thể tiểu đội trên dưới mười người. Chính quyền được cấp báo đến tiếp cứu thì quá trễ. Sau khi tiêu diệt bọn đặc công 4, 5 tên chiếm lại đảo, sự canh phòng được giao lại cho lực lượng hải thuyền, sau này sát nhập vào quân chủng Hải Quân thành đơn vị duyên đoàn chúng ta ngày nay. Cái eo núi, một trong hai nơi xảy ra cuộc thảm sát ấy bây giờ có cái tên là Ngã Ba Đầu Sọ.
– Ghê quá ! Ờ mà sao lại có ngã ba trên đảo? – Danh hỏi. Kim thay Tấn trả lời:
– Cạnh bãi chứa dầu có một con đường tráng nhựa rộng hơn ba thước cho xe chạy lên trên đỉnh núi. Mày thấy đó, đảo này có 2 đơn vị trú đóng: duyên đoàn mình đóng đô ở dưới chân, trên đỉnh núi một đơn vị khác là đài kiểm báo với radar là con mắt thần của mình có nhiệm vụ quan sát toàn vùng biển trách nhiệm, dò tìm, theo dõi và báo cáo các hành động ghe thuyền có tính khả nghi đang xâm nhập hoặc hoạt động cho Cộng sản. Chúng ta có nhiệm vụ tuần tra ngoài biển. Con đường được làm cho xe chạy, nhưng ít sử dụng vì hai chiếc xe thường hư hỏng, không có đồ thay thế sửa chữa. Đó là con đường chính. Con đường khác là một lối mòn ngay phía sau doanh trại này. Đây là lối tắt leo núi để đi qua khu gia binh phía bờ Nam. Đi lối này phải leo trèo qua những mỏm đá, nhưng được cái mát mẻ và đoạn đường ngắn hơn con đường chính. Hai con đường gặp nhau ngay trên đỉnh dốc của lối mòn qua bờ kia nên đươc gọi là ngã ba, đúng ra phải gọi ngã tư mới phải. Chiều mát, tao sẽ đưa mày qua đó, đến thăm “gia cư cho biết sự tình”. Có một lều bán quán, cà phê chả ra gì, ít ra bên đó còn nghe tiếng đàn bà. Bên này toàn đực rựa.
Bữa ăn trưa qua đi lặng lẽ. Cũng may, cái tủ lạnh cũ còn tốt, ít nhất mỗi người cũng được ly đá lạnh tráng miệng. Kim quay qua hỏi Tấn:
– Này ông phó, chiều nay mình qua bãi Nam thăm gia đình binh sĩ? Tết nhất đến nơi rồi, cũng nên đi ủy lạo chúc tết họ chứ?
– Thôi, mày đi được rồi, đưa thằng Danh qua cho nó biết. Tao đang bận. Cái chương trình tổ chức ăn Tết cho đơn vị chưa xong mà đã gần đến ngày rồi. Để tao làm cho xong đêm nay, ngày mai có lẽ ghe chợ và ông Phùng về tới, mình bắt đầu là vừa.
– Thôi được để tớ đi. À, để gọi báo cho Hùng biết.
Kim nói với Danh:
– Hùng là sĩ quan trưởng ngành truyền tin mật mã. Nó phải ở làm việc bên bãi Nam vì đài truyền tin nằm bên đó. Hắn chỉ qua đây chào cờ vào mỗi sáng thứ Hai và vào những ngày có họp. Vì thế Hùng kiêm chức trưởng khu gia binh
luôn. Hắn nhậu chì lắm. Điện thoại cho nó trước không chừng có chút lai rai.
Buổi chiều khi hết giờ làm việc, nắng đã dịu, hai đứa cầm gậy leo núi lên đường qua bãi Nam. Tới ngã ba Đầu Sọ là bắt đầu xuống dốc. Kim chỉ vào dãy nhà bỏ hoang còn tốt nguyên và nói:
– Đây là nơi xảy ra thảm kịch năm nào. Nghe kể ai cũng ghê. Bởi vậy, đám thầu Mỹ cố công cất thêm một dãy nhà thật khang trang mà không đứa nào chịu ở. Có đứa đêm hôm đi từ trên đỉnh núi xuống, về kể lại là khi đi ngang qua đây thấy có bóng không đầu trên tay còn bê cái đầu lâu nên sợ quá ù té chạy. Chuyện thật giả không biết, nhưng nhà cất xong cứ bỏ hoang từ ấy tới nay.
Lối mòn đi xuống bãi khá dốc, nhiều khi phải bám vào hai bên vách đá mà trèo. Con suối Tiên róc rách chảy qua lớn hơn bên bãi Bắc nhiều. Ngay giữa trại có một sân chơi khá rộng có hai sân bóng chuyền được bao quanh bởi những dãy nhà lợp mái tôn vách ván. Một cầu gỗ một nhịp nhỏ nhưng chắc chắn bắc ngang dòng suối nối kết hai bên bờ thành một doanh trại.
Hùng ở ngay căn phòng truyền tin tại dãy nhà nằm kế bờ đá được dùng làm bến. Hắn đưa hai người đi thăm viếng chúc Tết một số gia đình ở phía trong. Hắn bảo lúc này kiếm ra được giọt rượu còn khó hơn lên trời, thôi đi uống cà phê vậy.
Ba người kéo nhau ra cái quán duy nhất có cái tên rất lạ là Ò E hay Tò Te gì đó. Hùng giải thích: chúng nó sống ở đây thì giờ thì nhiều, chẳng biết làm gì ngoài cái chuyện tò te ấy, cái tên quán cũng phải lạ đời để quảng cáo, hấp dẫn đám trai tơ chưa vợ bên bãi Bắc mò qua.
Thằng Hưng, trung sĩ, làm chủ quán, vừa là nhân viên ban tâm lý chiến, vừa là hiệu trưởng, hiệu phó, kiêm thầy giáo duy nhất cho đám con nít học ba lớp trường làng, lại vừa nuôi heo. Giờ hành chánh Hưng đi dạy học. Đám trẻ chừng hơn hai chục đứa đủ cỡ gom lại trong một gian nhà, anh ta bao dạy trọn gói. Hết giờ làm việc thì lo nuôi heo cho đơn vị ăn Tết, khỏi trực gác. Tiện thể, anh làm hai chuồng, một cho tập thể, cái kia nuôi heo riêng cho gia đình.
Kim xen vào:
– Thằng Hưng cứ qua tao đòi chi phí cho việc chăn nuôi, mà nó nuôi heo riêng và vợ nó mập như cái thùng phi, còn bản thân nó và đàn heo chung thì ốm như que tăm, chẳng hiểu tại sao. Thời ông Lực, chỉ huy trưởng cũ còn ở đây, cha này thuộc loại sĩ quan lực lượng giáo phái cải cách qua nên hành xử cũng rất không giống ai. Mỗi khi lính dưới quyền phạm lỗi, lão có những lối phạt kiểu giang hồ rất tức cười. Một lần Hưng làm gì đó sai trái, lão bắt nó phải cõng vợ chạy mấy vòng sân cờ. Tôị nghiệp thân nó ốm yếu đâu chịu nổi sức nặng cả tạ của mụ vợ. Mới được vài bước đã lăn ra đi không nổi. Năn nỉ lão không tha. Cuối cùng lão bằng lòng cho chị vợ được làm thay, cõng chồng đi cho hết vòng. Cả đơn vị thỉnh thoảng lại được dịp ôm bụng cười.
Cà phê như nước gạo rang, nhưng cũng có nhạc sập sình từ cái máy cát – sét cũ rích, câu được ít khách chắc cũng nhờ con bé Hương, con gái đầu lòng của Hưng. Nó là đứa con gái lớn nhất trong đám trẻ, đã học hết chữ của bố không còn lớp theo nên ở nhà phụ mẹ bán quán. Năm nay nó đã mười ba, mười bốn, ngực mông bắt đầu nẩy nở, không đẹp lắm, cũng vẫn là bông hoa dại độc nhất của rừng. Mấy cu cậu trai tơ bên bãi Bắc vẫn cứ mò sang, chẳng làm gì được, nhưng cũng ngồi rửa mắt và… nuốt nước miếng.
Trời chạng vạng tối. Kim hối thúc ra về:
– Thôi về, chút xíu nữa tối mịt, leo dốc nguy hiểm .
Khi quay ngược trở lại tới ngã ba Đầu Sọ, trời đã lấp lánh ánh sao. Kim hỏi Danh có thấy sợ không. Danh nghĩ: một mình thì không biết, có hai người đi chung thì không có cảm giác gì. Nhìn lên trên đỉnh núi, ngọn hải đăng đã bắt đầu quay, ánh sáng chiếu tứ phía. Kim vội nói:
– À, còn một chuyện khá lý thú về hải đảo này nữa mày cần biết. Mà chuyện này có thật chứ không phải huyền thoại đâu. Đó là câu chuyện về viên chúa đảo.
Danh ngạc nhiên:
– Chúa đảo nào? Mày không muốn nói đến ông Phùng, ông xếp của mình, người có cấp bậc cao nhất trên đảo hiện nay chứ?
– Không phải ông Phùng. Thế mới ly kỳ. Đừng nôn nóng. Mai mốt sẽ biết.
Hai người lững thững xuống đồi. Đêm hải đảo tĩnh mịch và bình yên quá, chỉ nghe tiếng gió lao xao lá rừng, tiếng sóng vỗ chập chùng. Hiệp định Paris về ngưng bắn chuẩn bị có hiệu lực. Mong sao cho cả một giải non sông có được sự an bình giống như khung trời tí teo này.
Danh chợt nghĩ: một hòn đảo chỉ có bầy tiên xuống vui chơi tạm thời vẫn có được sự an lành, còn đất nước có niềm tự hào của giòng giống tiên rồng, dân tộc lại chưa có được một ngày an vui thái bình?
Cô độc trên hoang đảo.
Già Bông là một người khá độc đáo. Ở vào lứa tuổi trên bốn mươi, ông là người cao tuổi nhất trên đảo. Không kể đến đám vợ con lính ở trại gia binh, ông là người duy nhất trên đảo không phải là lính, dù lúc nào cũng mặc bộ tray-di trên người. Thực ra, ông chính là một công chức trực thuộc một sở (hay phòng) có trách nhiệm quản lý điều hành ngọn hải đăng trên đỉnh núi.
![]() |
Hoang đảo Nguồn: janeresture.com |
![]() |
Hoang đảo Nguồn: houseofherbs.com.au |
– Tao không đi tuần tiễu, nhưng hàng tháng đi công tác tiếp vận cũng có ghé ngang, có biết mặt con nhỏ. Thực ra, quán của nó chỉ là một cái chòi cất trên mặt nước giô ra ngoài bờ biển có được ba bốn cái bàn. Quán chỉ bán độc hai món hủ tiếu và mì tôm, thứ tôm nội của ghe cào mới kéo từ dưới biển lên. Hàng chủ yếu là các thứ giải khát bia rượu nước ngọt và cà phê. Con Lệ đâu biết nấu nướng gì. Chủ yếu õng ẹo với đám khách hàng toàn là lính chiến xa nhà tới ngắm nó rửa mắt thôi, cư dân trong vùng đâu có mấy ai vào quán nó. Người ta bảo quán đó nấu ăn rất dở, họ nói ăn ở nhà còn ngon gấp bội. Có điều nó dùng sắc lượn qua lượn lại để moi tiền thiên hạ hay vừa làm kinh tài vừa lấy tin tức cho Việt Cộng thì ai cũng chỉ đoán chừng vậy thôi, không có chứng cớ nên quán nó vẫn mở phây phây.
Danh nhớ lại, không đầy một năm trước trên sông Cửa Lớn, căn cứ Năm Căn cách đây không xa, một con tàu lớn (HQ 329 – 1972) đã bị chìm vì trúng thủy lôi của Việt Cộng trong một đêm mưa gió tầm tã khi đang cặp sát ngay trên bờ một quán gió bán cà phê của một cô bán quán khá xinh mới mở trước đó vài tuần lễ. Cô gái bán quán có lẽ là tình báo của Việt cộng đã biến mất từ lúc nào ngay trong đêm xảy ra vụ nổ .
Có bóng người đổ dài đi xuống trên con đường đưa lên núi. Kim lên tiếng:
– Chúa đảo đó! Lại bái chào chuá đảo đi.
Quay qua người đang đi tới, Kim nói:
– Đây là Danh, sĩ quan mới thuyên chuyển về đơn vị, ông làm lễ gia nhập đảo cho hắn đi!
Trước mặt Danh là một ông già dáng chừng trên dưới ngũ tuần. Ông mặc trên người bộ đồ trận màu ô liu đã cũ. Chiếc áo dài tay được xắn lên dường như hơi rộng so với sức vóc, chiếc quần đã được cắt hay xé đi phần ống phía dưới đầu gối, gấu rách te tua. Khuôn mặt ông khắc khổ xạm nắng, khuất dưới mái tóc dài che kín cổ. Trên đầu ông đội một cái mũ rộng vành cũng tả tơi không kém. Vai ông đeo một khẩu súng carbin, trong khi tay trái cầm một xâu chừng chục con dơi quạ. Trông ông có hình ảnh của một người sống trôi dạt trên một hoang đảo hơn là cái uy nghi của một ông chúa. Một Robinson thời đại. Ông xua tay lia lịa:
– Hổng dám! Hổng dám! Tôi là dân ngu khu đen có chức tước như mấy ông đâu mà cứ kêu tôi là chúa này chúa nọ vậy. Tôi chỉ làm đầy tớ chứ có làm chúa ai bao giờ. Có bà vợ tôi bả làm chúa tôi thì có. Mà bả đâu có ở đây! Chào mừng thiếu úy mới tới đảo. Tôi hổng biết, coi còn trẻ quá thì kêu đại ông là thiếu uý, có sai đúng gì thông cảm nghen.
– Không có sao bác à! cứ coi như con cháu trong nhà .
– Úy trời, hổng được! – Ông già chúa đảo nói. – tôi ngó phong sương vậy nhưng tuổi tác chưa cao, chừng hơn bốn chục, kêu chú đã là quá lắm rồi, bác cháu chi nghe tổn thọ quá.
– A ha ! Cóc mở miệng. – Lập từ xa la lớn – Ông bạn đời, bạn nhậu của tôi hôm nay sao nói năng hoạt bát dữ. Bình thường cạy miệng ông không nói. Ông thường hay lý luận: nói nhiều bay hết hơi men. Bữa nay ông nói được câu văn dài như vậy là thằng Danh tốt số, là ông có cảm tình với mi rồi. Nói nhỏ cho nghe, ổng có hai cô con gái rượu ngon lành lắm. Mi dám lọt vô mắt xanh của ổng rồi đó nghen. Mà thằng này cũng tài khôn tổ mẹ. Đúng là đồ “Bắc kỳ con” lém lỉnh. Mới gặp ông đã xưng bác bác cháu cháu nghe ngọt sớt. Để mai mốt đổi qua gọi ba xưng con cho dễ phải hôn? Ma lanh dữ!
Quay qua già Bông chúa đảo, Lập tiếp:
– Có mang mồi xuống phải không ông già? Y da! mấy chú này mập ghê, đủ để thanh toán mấy lít “trắng”. Tính mần gì nhậu đây chúa đảo?
– À! tiện trên đường đi xuống, tôi ghé “cái kho lương thực thiên nhiên” của tôi trong rừng “vớt” nhẹ chục em đem về đưa cay. Thứ này phải biết mần cho kỹ mới nhậu được. Để tôi lột da bỏ đi máy cục xạ trên thân chúng, rồi một nửa đem xào lăn để lai rai, một nửa đem nấu cháo đậu xanh vừa để giải nhiệt vừa giải rượu luôn. Thời tiết đang nóng nực, có thêm rượu càng nóng dữ, vậy mà làm một tô cháo dơi nấu đậu là mát lạnh thấu trời, đi ngủ phải đội nón.
Kim cướp lời:
– Nè! Ông sống độc thân ở đây mà cần chi nón áo? Đêm đêm nằm mơ có nước bắn máy bay giả tưởng chứ làm gì có mục tiêu. Đã lâu rồi bà xã chưa ra thăm phải không? Tết nhất tới rồi, nay mai ghe chợ về chắc có bả ghé thăm quá!
– Cũng mong vậy. Tôi cũng đang chờ chuyến ghe về có bả đi theo để coi sấp nhỏ lóng rày sống ra sao?
Nói đến đây già Bông có vẻ hơi buồn, ông đang nhớ đến vợ con, hẳn vậy.
– Xời ơi! Chúa đảo gì mà tình cảm thế! Thôi, vui lên đi. Thế nào cũng có bả trong chuyến ghe về tới nay mai. Chuẩn bị súng ống là vừa.
– Uý trời! – Ông Bông đỏ mặt , tính ông vẫn thế – tôi già hết xí quách, còn làm ăn được gì nữa đâu mà súng với đạn?
Kim trêu chọc thêm:
– Thôi ông ơi! Chúa đảo gì yếu xìu quá vậy? Ông còn nhai cơm, chưa phải húp cháo mà! Đất có thổ công, sông có hà bá. Chúa đảo phải có cái uy chứ! Có cái uy dũng nào bằng sức mạnh duy trì giống nòi? Đùa chút thôi, cạn chung này cho đẹp cái coi. – Kim đưa cho ông ly rượu mới rót đầy – Nhậu thoải mái đi, rồi tối nay ngủ lại đây qua đêm chờ sớm mai đón ghe về luôn. Đi chuẩn bị súng ống để mình đi săn một bữa liên hoan đãi bả.
– Đâu được! Cỡ nào tôi cũng phải leo về đỉnh, còn công việc đâu bỏ bê được.
– Không sao đâu! Để tôi gọi điện lên trển nhờ mấy thằng em Đài Kiểm Báo trên đó giúp lo cho ngọn hải đăng. Đằng nào tụi nó cũng phải canh gác mà.
Già Bông nhất quyết từ chối:
– Mấy cậu thấy đó. Bao nhiêu năm làm việc tôi chưa bê trễ. Không có ngọn đèn của tôi, ghe tàu có thể bị lạc lối mà gặp nguy hiểm. Trách nhiệm ấy tôi chịu chứ ai. Thôi để tôi về, mai chuyến ghe về tôi lại xuống, mấy hồi.
– OK! Về thì về, nhưng lúc này còn sớm cứ nhậu thoải mái. Tối, tôi bảo mấy thằng em đưa ông về. Bây giờ làm tô cháo dơi giải nhiệt lấy lại sức uống tiếp.
– Coi thường chúa đảo này quá vậy? – Ông ngửa cổ cạn một hơi ly rượu, khà một tiếng thật mạnh rồi tuyên bố – Chúa đảo sẽ lai rai với mấy em tới chiều tối, rồi sẽ lội bộ về “mình ên”, không cần mấy em đưa về. Cái hoang đảo này là nhà của “qua”, mấy chú vẫn coi “qua” là chúa đảo thì có xó xỉnh nào chúa đảo không rành mà cần người dẫn đường.
Có tiếng la chói lói từ phía phòng hành quân. Danh hỏi Kim có chuyện gì vậy? Kim đi ra, một hồi quay trở lại cùng Lập nói với giọng vui vẻ:
– Đã liên lạc được với chuyến ghe chợ. Họ đang trên đường về. Có lẽ sẽ tới đảo vào tối nay. Tụi nó mừng quá nên la hét đó.
Ông Bông đứng bật dậy lắp bắp:
– Mấy cậu hhh. ỏỏỏ…iìi… giùm…ttt…ôôô…i coi bà…bà…xxxããã…của tôi có mặt ở trên đó k…h…ô…n…g???
– A ha ha ha ha hah, ông già chúa đảo cà lăm tụi bay ơi! Nói cho ông nghe nhé! Đây là bí mật quân sự không cho ông biết được. Ráng mà chờ thêm vài tiếng nữa, chúa đảo…ơi!
Có phải là giấc mơ?
Buổi chiều, chuyến ghe chợ về tới, doanh trại nhộn nhịp hẳn lên, hải đảo như bừng sức sống. Tiếng người đi lên xuống bãi chuyển hàng cười nói, gọi nhau ơi ới, y như một ngày hội. Người ta hỏi thăm nhau, chuyện trò về đời sống trong đất liền, trong thành phố. Chỉ có mình già Bông là buồn, hơi buồn thôi. Bởi lẽ trong đám người trên ghe chợ từ Rạch Giá trở về không có vợ ông. Bù lại, Lan và Đào, hai đứa con gái rượu của ông lại có mặt.
Chắc phải có chuyện. Thường thì mỗi khi Tết đến, nếu ông không về được thì bà vợ lại cho các con về ngoại để ra thăm ông. Năm nay bà không đi, ông phải hỏi xấp nhỏ ra sao.
Gặp hai con, ông rất mừng, Chà! Kỳ này coi bộ tụi nó lớn bộn, mà xinh đẹp hẳn ra, làm ông cũng hãnh diện. Bởi vậy, mấy chàng lính trẻ độc thân cứ mò theo tán tỉnh. Từ trên tàu, thấy cha đứng trên bãi chờ, Đào gọi ríu rít:
– Chị Lan ơi, tiá đón mình trên bờ kìa. Tía, tụi con này tía!
– Ồ! Lan Đào hai con, thế má đâu?
– Má bận không đi được nên bảo tụi con đi thế. Để chút xíu lên bờ con kể tía nghe. Mà sao lóng rày tía giống… Tặc Giăng vậy? Má thấy chắc bả hết hồn luôn.
– Có gì đâu bây. Tía ở đây nhớ má con bây, buồn buồn để râu tóc phong trần chơi. Với lại, hồi trước bả cũng mê nhân vật Tặc Giăng lắm, đi coi phim về cứ đòi làm Giên của ông chúa rừng xanh ấy mà.
Già Bông ra cầu tàu phụ xách đồ đạc đưa lên bờ. Hai chị em đã được mẹ chuẩn bị cho khá nhiều đồ để ba cha con cùng ăn Tết: thực phẩm, bánh mứt kẹo cho ngày Tết có cả trái cây từ vườn nhà. Bà cũng không quên gửi cho ông mấy lít đế Gò Công thượng hạng và một ít rượu nếp than với lời nhắn nhủ riêng: có vui xuân cũng chừng mực thôi, để còn lo lắng chăm sóc cho 2 con gái. Ông sung sướng đưa hai con lên bờ.
Có con ra thăm và ở lại ăn Tết là ông vui, nhưng trên ngọn hải đăng ở đỉnh núi nơi ông làm việc chỗ ở quá chật chội, leo lên leo xuống thật vất vả và bất tiện, ông chưa biết tính sao. Quay qua với Lan và Đào ông hỏi:
– Má khoẻ không? Có chuyện gì vậy?
Lan giải thích:
– Cũng không có gì, tía đừng lo. Ngoại không được khoẻ lắm nên kỳ này má về quê thăm ngoại. Má dặn tụi con ra đây với tía. Rồi chừng nào có chuyến tàu về thì ba cha con cùng về để thăm ngoại luôn. Má có đến sở làm của tía để thông báo cho người tạm thế tía rồi. Có lẽ ít ngày nữa họ sẽ ra thế. Tụi con ra ăn Tết với tía rồi đưa tía về luôn thể.
– Được vậy cũng tốt. Để tía lên kiếm chỗ cho 2 con nghỉ ngơi. Đi tàu có mệt lắm không?
– Mệt nhưng mà cũng vui. Tụi con muốn đi chơi thay đổi không khí.
Ba cha con kéo nhau đi lên. Gặp Lập trên đường đi, ông Bông nhắn hỏi Lập có giúp ba cha con ông một chỗ ở tạm thời được không, chứ phải leo núi nhiều lần trong ngày, các con gái ông e không kham nổi. Lập bảo ông cứ yên tâm, gì chứ phòng ốc thì đơn vị vẫn có sẵn vài căn bỏ trống. Lập nói để đi trình báo cho chỉ huy trưởng Phùng một tiếng là xong. Anh đi một lát quay trở lại cùng với ông Phùng. Ông bảo:
– Ông Bông muốn ở căn phòng nào cứ dọn vào. Có mấy căn trống kế bên dãy phòng sĩ quan đó – ông cười hóm hỉnh thêm – Chúa đảo muốn gì mà không được?
– Ông trưởng đùa vậy chết tôi. Lan, Đào hai đứa con gái tôi chắc thiếu tá đã biết trên tàu?
Quay sang Lan Đào, ông bảo:
– Chào thiếu tá chỉ huy trưởng đi hai đứa!
– Tía khỏi lo. Tụi con đã chào và trình giấy tờ lên thiếu tá từ trước ở tận Rạch Giá lận. Nếu không làm sao được phép đi theo chuyến ghe tới đây được.
– Đúng rồi. Chúng tôi có nói chuyện với nhau rồi. Để tôi coi có ai giúp một tay phụ sắp xếp được không? – Ông quay qua hỏi Lập:
– Ông có rảnh giúp ông Bông một chút được không?
Lập trả lời:
– Giờ này đang phiên trực phòng hành quân nên tôi bận. Có anh Danh mới tới đây ít ngày còn rảnh rỗi, để tôi bảo anh ấy lo cho.
Lập đi vào phòng tìm Danh. Danh nói OK trong khi Lập bảo:
– Tên này thật tốt số! Vừa mới tới đã có cơ hội gần người đẹp. Lại được dịp kiếm điểm với ông già nữa chứ!
Danh trả đũa:
– Vừa thôi đàn anh, để cho thằng em sống với chứ! Chưa có miếng mà đã có tiếng rồi.
Lập nheo mắt cười khà khà bỏ đi lên phòng làm việc. Danh đưa gia đình ông Bông vào một căn phòng phía sau để ba cha con xắp xếp vật dụng. Ông Bông dặn dò hai cô gái theo lời chỉ dẫn của Danh, còn ông phải leo lên núi chuẩn bị thắp ngọn đèn hải đăng vì trời sắp tối. Ông bảo vừa đi, về và làm việc, rồi gửi gắm anh em trực máy coi chừng giùm cũng mất khoảng hai tiếng. Chút xíu nữa lại tiếp tục lai rai, đêm nay hẳn phải vui. Nói rồi ông tất tả đi, dáng nhanh nhẹn hơn mọi ngày như mới có thêm một liều thuốc bổ. Danh bảo hai cô:
– Hai em chờ ở đây. Anh đi kiếm thêm ít giường nệm cho ba cha con, có vật dụng cá nhân nào sắp xếp được cứ làm trước. Anh trở lại ngay.
Danh lên phòng tiếp liệu nhờ trưởng phòng Kim cung cấp cho một ít giường nệm chăn mền. Khi trở lại thì Lan Đào đã xếp đặt gần xong. Nhìn Lan, anh nói:
– Cần giúp một tay không nào…Lan? À! Mà Phong, Thanh, Bạch, Hoàng, Xuân, Dạ, Ngọc, Ý…Lan. Em là Lan nào?
– Em là lan ruộng, lan vườn xa phố, nên chỉ đơn giản là Lan thôi.
– Thế sao? Biết đâu một ngày đẹp trời nào đó, em trở thành một nữ sĩ nào đó thì cần một cái tên thuộc loại lan chứ? Thôi, anh gọi là Li Lan nhé! Li Lan, Li Lan. Hợp với cánh lan rừng, lại có vẻ Tây nữa chứ, chịu không?
– Chị Hai chỉ muốn là…khoai lan(g) thôi – Đào trêu chị.
– Quỉ nè! – Lan gõ nhẹ lên đầu em – anh thích gọi tên gì đó cứ gọi. Với Lan thì tên Lan mình ên cũng đủ rồi.
– Thôi , hai chị em thu xếp rồi nghỉ ngơi đi! Ngày mai rảnh lên núi chơi để coi lan núi lan vườn, lan nào đẹp hơn cho biết.
Danh chào từ giã hai người trở lên phòng làm việc. Lập ngẩng đầu lên chọc:
– Mới đó mà đã mết dữ ha! Thằng này số hên thiệt tình. Nhưng mà chọn một thôi đó nghen! Đừng có chơi trò hoa thơm đánh cả cụm là chơi gác anh em đó .
– Thì ông cứ nhào vô, ai cấm. – Danh đáp. Lập bảo:
– Thôi để nhường đàn em tụi bay. Tao tu rồi. Lâu nay chỉ làm bạn với rượu với thơ.
Rồi Lập cất tiếng ngâm nga:
Mênh mang thơ túi rượu bầu
Cung đàn nửa nhịp, giọt sầu nửa ly
Trầm mình trong cõi vô vi
An nhiên một kiếp cuồng si một đời…
![]() |
Tình nhân Nguồn: deroncohen.com |
Tím cả một lưng đồi
Tím đến tận bờ môi
Dáng ai bên bờ suối?
Nụ hôn có gọi mời?
Lan ngước mắt nhìn Danh, không nói, anh đưa tay vuốt nhẹ mái tóc nàng rủ xuống hai bờ vai. Lan nhắm mắt, dáng đợi chờ. Anh cúi xuống đặt nụ hôn nhẹ lên đôi môi mọng tím. Anh nếm thấy một mùi hương thoáng vị chua ngọt của trâm. Lan ngả đầu nép sát ngực Danh. Anh ôm nàng trong tay. Thân thể nàng rung động, nóng bỏng trong vòng tay anh. Anh ép sát người nàng, nghe cảm giác bờ ngực mểm mại đang thổn thức rạo rực trong anh. Anh đưa tay nâng nhẹ gương mặt nàng lên để thấy hai bờ môi cuốn hút vào nhau, đắm đuối, mãnh liệt, cuồng loạn. Một hồi lâu, Lan rời ra, quay đi khuôn mặt bừng đỏ, nàng lên tiếng:
– Anh tham quá, mới quen nhau đã hôn tới… hai lần, làm người ta muốn nghẹt thở
Danh xiết nhẹ đôi bờ vai của Lan, cho nàng tựa đầu lên vai, thì thầm bên tai nàng:
– Lan ơi! Mùa xuân đang đi tới. Đây… có phải là mơ?
( DCV)