CHẾT RỒI MỚI HOÀN THÀNH ÐƯỢC ƯỚC NGUYỆN

Linh mục Đinh Quang Lục


....Một ngày tháng tư năm 1990, tôi về quê hương nơi ông cố nội tôi - cụ ÐINH VIẾT LIÊN- cùng với 27 cụ tổ đã dầy công cộng tác với nhau trong lao động cần cù: quai đê vượt đất lập ấp, đã cùng tính toán để hình thành làng THỨC HOÁ hôm nay. Dịp nầy tôi gặp bà con trong thánh lễ với kèn trống rộn ràng. Ngày ấy, tôi đã cầu nguyện cho mọi người đã sống và đang sống trên quê hương, những người còn sống và những người đã qua đời. Bao nhiêu năm xa cách, ngày ra đi tôi còn bé lắm, cậu bé 7-8 tuổi biết cái gì? Nhớ cái gì? Dầu vậy tình cảm tôi vẫn dâng cao với bao nhiêu chuyện của quá khứ. Rồi ra nghĩa trang tôi sụp lạy trên ngôi mộ ông Cố Nội bằng đá xanh, lòng biết ơn trào dâng. Lòng biết ơn làm sao kể xiết: con cám ơn ông Cố Nội đã lưu lại trong con một dòng máu nóng, một ý chí quyết thắng vượt qua mọi gian khó, một nghị lực bền bỉ giữa mọi nghịch cảnh và vững chắc vươn lên. Tôi đứng giữa người chết và nhớ lại thế hệ tiền nhân hào hùng bất khuất, lòng hãnh diện vô cùng: “ TỔ TIÊN KHAI PHÁ- CON CHÁU XÔNG PHA”.


Tôi nhớ lại một lần Ba tôi kể: “ông Nội tôi đông con nhiều cháu, đất THỨC HÓA do ông Nội tôi để lại không đủ canh tác, nên Ba tôi - cụ Ðaminh ÐINH TẤT ÐẠT, người ta thường gọi là cụ Cựu Kiền đã xuống bể Ðông quai đê lập ấp”. Người con THỨC HÓA có tinh thần khai phá mở mang và làm cho ấp Hoành Tam, xã Giao Thiện, huyện Giao Thuỷ trở thành vùng đất cho con cháu sống. Khẩn hoang lập ấp rồi, ông Nội tôi quan tâm đến lòng đạo của con cháu và những người Kitô hữu cùng cư ngụ trong ấp, dứt khoát phải có nơi cho con cháu và bà con có đạo, nhất là người già và trẻ nhỏ có nơi gặp gỡ sáng chiều thể hiện lòng tôn thờ Chúa, vang lên những lời kinh tiếng hát chúc tụng Chúa đến muôn đời. Ðúng như lời cầu nguyện của Tôbia con: “Thân lạy Chúa! Chúa biết rằng không phải vì lý do sắc dục mà tôi cưới cô em đây làm vợ, song chỉ vì yêu mến dòng dõi những người biết ca tụng Chúa tới muôn đời”. (Tôb.8,7). Cụ muốn có một nơi thờ phượng cho những dòng dõi của cụ. Cụ có lòng tin và muốn cho con cháu sống đức tin, kiên vững niềm tin, tuyên xưng đức tin và truyền bá đức tin trong vùng cụ sống. Thật là ước muốn đạo đức và cụ quyết tâm thực hiện. Năm 1929, cụ đã được bề trên chấp thuận cho cụ lập giáo họ Hoành Tam kính Thánh Nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, Quan Thầy thứ hai của các xứ truyền giáo. Cụ tiến hành dâng đất làm Nhà Thờ, cụ mua cây dựng Nhà Thờ nhỏ bé nghèo nàn cho con cháu có nơi cầu nguyện. Con cháu và những người tin, qui tụ bên nhau sớm chiều cùng thờ lạy, ngợi khen, nài xin Chúa. Ngôi Nhà Thờ mái tranh vách đất này đã gục ngã vì cơn bão năm 1947. Cụ đã già, giờ chết gần bên, cụ không thể xây dựng lại một ngôi Nhà Thờ mới thờ phượng Chúa. Cụ đã kêu người con Út đến và trăng trối: “Anh Thùy! Anh phải điều động anh em, con cháu xây dựng Nhà Thờ mới”. Ba tôi, ông cố Thùy, luôn luôn nhớ lời căn dặn trăng trối của Cha mình, ông đã mua vôi, mua gỗ lim, mua gạch dự trù xây cất Nhà Thờ bà Thánh. Bất ngờ chiến tranh leo thang, ông cố không thể ở nhà, việc chuẩn bị xây Nhà Thờ mới chấm dứt từ đây. Cuộc di cư vào Nam đã làm cho ông cố quên đi ngôi Nhà Thờ Di Chúc, vì lo âu về cuộc sống mới và không biết ngày nào mới trở về quê hương.

Tuy vậy, lời căn dặn của người cha vẫn làm cho ông băn khoăn thao thức. Rồi ngày 30/04/75 đã đến, lời Di Chúc lại hiện rõ trong bộ nhớ của ông. Khi có dịp các cháu từ miền Bắc vào thăm, ông luôn luôn hỏi về Nhà Thờ. Lúc đó Nhà Thờ đã được các cháu của ông mua thêm vật liệu và dùng vật liệu ông để lại để xây dựng xong. Ðây là sự hy sinh lớn lao, vì việc xây dựng Nhà Thờ mà có những người như ông Xã Hào- con trai lớn của ông cố Kiện phải đi tù nhiều năm. Thấy các cháu chắt nhiệt tình sống đạo, ông cố vui mừng và sẵn sàng tiếp tay với các cháu. Ông cố gửi tiền về đúc chuông lấy tên ông Nội: Ðinh Tất Ðạt kính dâng, xây tháp chuông, sửa sang, gia cố Nhà Thờ.


Rồi một ngày ông cố và tôi, cha con ngồi bên nhau, cha tôi đã chia sẻ niềm vui ông đã lo cho Nhà Chúa tại quê hương. Ông cố kể cho tôi là ông làm việc nầy, việc kia, tự phát tôi đã nói: “Ba có gửi tiền về bao nhiêu thì Nhà Thờ cũng chỉ chấp vá mà thôi”. Ba tôi trầm tư suy nghĩ một hồi rồi nói: “Cha là sự khôn ngoan của tôi, Cha mạnh mẽ, sáng suốt, cho nên tôi giao 16 cây vàng và việc xây dựng Nhà Thờ cho Cha. Cha huy động anh chị em trong gia đình đóng góp thêm để làm việc này”. Tôi ngần ngừ, suy nghĩ…Ba tôi nói thêm: “Tôi không giao cho Cha việc xây dựng Nhà Thờ Hoành Tam, Cha chẳng quan tâm gì đến quê hương. Tôi giao cho Cha, vì đây là việc ông Nội Cha ao ước. Cha biết một điều là trong các cháu ông Nội Cha yêu Cha nhất. Trước khi chết ông Nội Cha đã bắt đặt Cha trên bụng để chơi với Cha và Chúc Lành cho Cha. Hôm nay tôi không giao cho Cha, Cha sẽ chẳng quan tâm gì đến nhà Bà Thánh” . Câu nói ấy cứ âm ỉ trong tôi và nó muốn bùng lên như thiêu đốt tôi. Với bao nhiêu việc mục vụ trước mắt, tôi không muốn quan tâm đến lời Ba tôi, giống như người THỨC HÓA đã đi xa còn nghĩ gì đến quê nhà. Hơn nữa, càng xa cách quê hương, nguồn cội, càng xa lạ với nó, vì có biết gì về nó đâu. Người THỨC HÓA trẻ hôm nay xa cách quê hương chẳng mấy quan tâm, để ý, chẳng nghĩ tới quê hương. Có lẽ đây là sự bật gốc, trốc rễ, đánh mất cội nguồn. Cái may cho tôi là lòng yêu thương Ba tôi, ông Nội tôi và anh em cháu chắt còn ở lại quê nhà đã đưa tôi đến quyết định mạnh mẽ và dứt khoát: “ Phải xây dựng Nhà Bà Thánh thật tốt đẹp”.
Từ đây, tôi quyết định về quê, nơi chôn nhau cắt rốn, như Ba tôi căn dặn, để thấy cụ thể, biết được thực lực ước muốn, đóng góp cộng tác tại Hoành Tam. Tháng Tư năm 1990, tôi đã về lần thứ nhất. Cũng dịp nầy tôi đến THỨC HÓA làm lễ thăm mồ mả ông Cố Nội và mọi người thân như bà con quê hương THỨC HÓA mời gọi. Tôi đã đến nghĩa địa trong tư thế người cháu cầu nguyện cho ông bà cố và bà con yên nghỉ nơi đây. Dịp nầy lòng yêu quê hương là chùm khế ngọt bừng lên trong tôi. Ðọc lịch sử tôi nghĩ về những người quá khứ, nhìn thực trạng để thấy những người hiện tại, nghĩ về tương lai để tưởng tượng những người tương lai. Tương lai hay hơn hiện tại, hiện tại đẹp hơn quá khứ, đúng là “ hậu sinh khả uy”ù. Chuyến thăm quê hương lần nầy. Tôi có thể tưởng tượng ngôi Nhà Thờ mới kiểu GOTHIQUE, không có đất chiều ngang, nên phải xây Nhà Thờ song song với đường cái quan, có nhà giáo lý, có đài Ðức Mẹ… Ðây là những nét chấm phá đầu tiên mà những lần về sau sẽ định hình rõ nét, đi vào chi tiết.

Anh em tại Hoành Tam cùng tôi định hình Nhà Thờ và các cơ sở phụ kèm theo. Dĩ nhiên, bà con Hoành Tam đã đi tham quan các Nhà Thờ trong Giáo Phận Bùi Chu, rút ưu khuyết điểm để định hình cho ngôi Nhà Thờ mới. Biết ông cố cho 16 cây vàng, vậy số tiền còn lại lấy ở đâu? Tôi không trả lời dứt dạc, chỉ nói: để Chúa lo, bà Thánh Têrêsa tính. Riêng tôi, tôi thấy chỉ có lòng hiếu thảo mới có thể chu cấp tiền bạc cho công trình nầy. Tôi biết mọi người con đều thương Ba Mẹ và muốn ước mong của Ba Mẹ được thực hiện, nên tôi đã kêu gọi anh em trong nhà và theo ý Ba tôi thì anh Ba Tuyển sẽ là người tác động anh em bên Mỹ và thu gom tiền bạc cho công trình.

Cuối cùng, Ban Hành Giáo của Giáo Họ Hoành Tam đã xin được phép xây dựng Nhà Thờ mới, Nhà Thờ cũ được hạ giải. Việc khởi công xây dựng Nhà Thờ mới đưôc khởi sự với quy cách mẫu mã rõ ràng, kỹ sư theo sát, anh em dâng công nhiệt tình, vật liệu được đặt theo đúng tiêu chuẩn. Sau 2 năm vất vả, ngày 31.01.2002 Nhà Thờ Bà Thánh được làm phép Khánh Thành trong niềm vui rộn rã, với lòng cảm tạ chân thành. Mọi sự đều tốt đẹp kể cả thời tiết.

Chiều ngày Khánh Thành, các cháu chắt đã dẫn nhau ra phần mộ ông bà báo cáo: “Lời Di Chúc đã được thực hiện”. Phần ông bà hài lòng, rất hài lòng vì chết rồi mà nguyện ước vẫn được hoàn thành. Ðó chính là lòng hiếu thảo của con cháu tiếp nối công việc của Tổ Tiên và làm cho mong ước của Tổ Tiên trở thành hiện thực. Phần anh em chúng tôi (ông bà Tuyển, tôi, các cô em ) rất vui mừng cảm tạ Chúa vì Chúa đã thương cho chúng tôi, con cháu ông bà cố Thùy đã hoàn thành được nguyện ước tốt đẹp của cha mẹ. như vậy món nợ nặng nề đã trả xong, lòng an nhàn thư thái. Anh em chúng tôi nhìn nhau mỉm cười: Ông bà cha mẹ và mọi người đều vui.


Cha ông Tiên Tổ ước mơ
Cháu con cộng tác mong chờ thành ngay.


Lm . GIUSE THỢ

Đinh Quang Lục